Con Người Tâm Linh

0
22

CON NGƯỜI TÂM LINH
Thích Đạt Ma Phổ Giác

thichdatmaphogiacthichdatmaphogiacCON NGƯỜI HAY TÌM CẦU BÊN NGOÀI MÀ QUÊN MẤT CHÍNH MÌNH

Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có
phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như
thế nào thì biết rõ như thế đó; tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Thời gian
qua, các nhà ngoại cảm đã giúp tìm hài cốt liệt sĩ hy sinh trong các cuộc chiến
tranh giúp người sống tìm được người chết bị mất tích, Phật giáo Việt Nam kết
hợp
với chính quyền các cấp đã tổ chức nhiều đại lễ cầu siêu cho các hương linh,
góp phần làm vơi đi nỗi đau mất mát của người còn sống, an ủi, hóa giải cho
những người đã khuất.

Không một người nào khi đang còn sống
trên thế gian này mà lại không có những mối liên hệ mật thiết giữa mình với thế
giới
xung quanh. Cuộc sống mỗi con người luôn có tâm linh sáng suốt nhưng vì ta
bị gió nghiệp cuốn trôi nên chạy theo tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon,
mặc đẹp, ngủ nhiều mà đánh mất chính mình. Sự hoảng sợ, nỗi lo âu mất mát và sợ
chết
là một trong những căn bệnh tâm lý khó chữa nhất của con người, là nguồn
gốc của sự chấp ngã cho thân tâm này là thiệt có “cái ta”.

Thế nhưng, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở đời
sống
phàm tục mà không hề biết tới đời sống tâm linh, không thừa nhận có tái
sinh-luân hồi-sống chết thì chính điều ấy đã cản trở mọi người đi tới con đường
bình yên, hạnh phúc theo lời Phật dạy. Lành thay cho chúng ta, đất nước Việt
Nam
đã chấp nhận mở mang, phát triển sinh hoạt tâm linh trên quy mô toàn
hội
. Nhiều người đã thừa nhận một cách có hiểu biết và nhìn nhận sáng suốt về
học thuyết luân hồi tái sinh của đạo Phật, có niềm tin sâu sắc đối với nhân quả.
Thừa nhậnhiện tượng tái sinh-luân hồi-sinh tử nghĩa là thừa nhận chết không
phải là hết, chết chỉ là thay hình đổi dạng để có đời sống kế tiếp tốt hay xấu do
nhân đã tạo trong hiện tại. Học thuyết tái sinh đã cho thấy sự thừa nhận chính
thống
về sự tồn tại của đời sống tâm linh, muốn sống tốt và bình an, hạnh phúc
trong hiện tạimai sau ta phải dứt ác làm lành để được sống yêu thương
hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.

Nếu không tâm linh thì không có đời sống
con người trong hiện tại, khoa học hiện đại thường chia đời sống con người
xã hội thành hai lĩnh vực là đời sống vật chấtđời sống tinh thần. Chúng ta
cần phải biết rằng, giáo dục Phật học
chính là nền tảng giúp con người thấu rõ sức mạnh tâm linh đang hiện hữu nơi thân mỗi người. Hiện tại, ở miền Bắc
đất nước Việt nam có đến 4 nhục thân của các Thiền sư tu hành theo đạo Phật đã
tự tại ra đi với tư thế ngồi kiết già gần cả ngàn năm mà thân xác vẫn còn
nguyên vẹn. Tại chù Phật Tích và chùa Tiêu mỗi chùa có 1 nhục thân, riêng chùa
Đậu có đến 2 nhục thân của Thiền sư. Nhục thân của 4 vị đều đã được khoa học
khám nghiệm và xác nhận không có chất ướp xác. Tại miền Nam, năm 1963, Hoà
Thượng
Thích Quảng Đức đã để lại trái tim bất diệt sau khi ngồi tự thiêu ở tư
thế kiết già để nguyện cầu cho nhân loại sống yêu thương lẫn nhau bằng trái tim
hiểu biết. Sư ông chúng tôi đã chứng kiến và thấy trái tim bất diệt đó sau khi
đã được các nhà khoa học cho thiêu lại trên 4000 độ mà vẫn y nguyên. Sự tồn tại
phần tâm linh của con người ngay nơi thân vật chất này là một sự thật, nhưng vì
chúng ta bị gió nghiệp thức cuốn trôi nên dính mắc vào tiền tài, sắc đẹp, danh
vọng
, ăn uống, ngủ nghỉ thoải mái mà không nhận ra phần tâm linh nơi mỗi người.

Chúng ta được sinh ra và lớn lên trong một ngôi nhà, ai cũng ao ước
có căn nhà đẹp, kiên cốvững chắc. Ngôi nhà tâm linh không như ngôi nhà bình
thường
nên ta không thể dùng mắt để thấy hay dùng tay mà sờ mó được. Ngôi nhà
này không được xây dựng bởi vật chất mà bằng chính tuệ giác và sự tu tập qua sự
nghiệm xét, quán chiếu bởi sự thanh tịnh, sáng suốt của chính mình. Sống ở đời
chúng ta có thể nghèo tiền, nghèo bạc chớ đừng nghèo đói về đời sống tâm linh
đang tiềm ẩn ngay nơi thân vật chất này. Ai nghèo đói về tâm linh thì người ấy
đã đánh mất chất liệu của yêu thương bằng trái tim hiểu biết nên khó bao giờ có
được tấm lòng từ bi rộng lớn để thương yêu bình đẳng tất cả chúng sinh. Không
riêng gì con người Việt Nam chúng tamọi người trên thế giới đều cần có một
ngôi nhà tâm linh vì nó là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống nhân
loại
, nó là chỗ cho ta quay về nương tựa sau những cơn sóng gió của cuộc đời.
Chính vì vậy, Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp”.

Chúng ta
xây dựng ngôi nhà thế tục bằng cây, xi măng, gạch, đá, sắt, thép nhưng chất
liệu giúp ta xây dựng vững chắc nền móng căn nhà tâm linh là giới-định-tuệ và
từ-bi-hỷ-xả. Đối với người tại gia Phật dạy giữ gìn 5 giới và tu 10 điều thiện.
Thọ trì 5 giới và tu 10 điều thiện là một trong những phương thức tạo nên đời
sống
bình yên, hạnh phúc trong hiện tạimai sau. Vậy chúng ta giữ giới chính
là để xây dựng một cuộc sống an vui, hạnh phúc từ thể chất đến tinh thần chớ
không phải vì ta bi quan, yếm thế, chán đời. Những chất liệu này còn vững chắc,
bền bỉ và lâu dài hơn cả bê tông, cốt sắt.

Không
sát sinh, hại vật mà ta còn hay phóng sinh mở rộng tấm lòng từ-bi-hỷ-xả. Đó là
người có lòng nhân ái bởi giết hại là nhân gây ân oán, thù hằn không có ngày
thôi dứt. Người giết người, người giết vật, vật giết người thành một cái vòng
lẩn quẩn
, từ đó chiến tranh không bao giờ chấm dứt. Con người vì nuôi thân mình
nên đã sát sinh hại vật, một số người còn nói “vật dưỡng nhơn”, tức loài vật là
do trời tạo ra để nuôi dưỡng con người và cúng tế thần linh. Ai theo truyền
thuyết
này sẽ cám ơn ông trời và vô tình khiến tâm giết hại càng chồng chất
thêm mà dẫn đến giết người khi không làm chủ bản thân. Phật vì lòng từ bi
thương
xót nên cấm người xuất gia không được giết hại, người tại gia thì tùy hoàn cảnhcố gắng giữ
giới
sát sinh bằng ba cách: Không trực tiếp giết hại, không xúi bảo kẻ khác
giết hại và không vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Người Phật tử
hãy nên mua thịt cá đã làm sẵn hoặc nấu chín để không gieo thêm ân oán, thù hằn.
Từ bi hơn nữa, ta hãy phát tâm ăn chay mỗi tháng tùy theo khả năng hay ăn chay
trường để tránh việc chúng sinh bị giết hại. 

Người
trộm cướp luôn bất an, lo sợ bị truy tố trước pháp luật và chính lòng họ cũng
thường bị ray rức, ân hận khi làm các việc xấu ác. Họ vì không có công ăn việc
làm
sinh sống, vì lỡ si mê nghiện ngập, vì không có tiền nên mới phải làm liều.
Trái lại, người muốn ít biết đủ, biết nuôi mạng sống chân chính bằng mồ hôi,
sức lực của mình thì không bao giờ phải lo sợ như thế. Không gian tham trộm
cướp tức là ta sống một đời đạo đức, thánh thiện nên được mọi người mến thương,
thích gần gũi.

Người
xuất gia thì không dâm dục, người tại gia thì không tà dâm, như vậy sẽ đảm bảo
hạnh phúc cho mình và người. Trong một gia đình nếu vợ chồng sống hòa thuận
luôn tin yêu, chồng giữ đúng bổn phận làm chồng, vợ biết lo tròn bổn phận làm
vợ, không đứng núi này trông núi nọ và chung lo xây dựng gia đình thì đó chính
là một gia đình hạnh phúc.

Không
nói dối giúp ta rèn được đức tính thành tín, chân thật. Người chân thật
thành tín luôn được mọi người tín nhiệm, tin tưởng. Không nói dối hại người thì
ta ở đâu cũng được người thương mến. Dĩ nhiên, trong công việc giao tiếp hằng ngày
ai cũng muốn được tín nhiệm, tin tưởng vì đó là yếu tố thành công trên đường
đời.

Không
uống rượu hay dùng các chất độc hại như xì ke, ma tuý là những chất liệu tinh
khiết
giúp chúng ta không rơi vào si mê, cuồng tín. Vì người say sưa luôn tự hạ
thấp phẩm cách của mình mà vướng vào nạn bạo hành gia đình và vòng xoáy của tệ nạn
xã hội. Hơn nữa, theo y học, rượu làm tinh thần con người ngày càng bị tê liệt bởi các chứng
bệnh thần kinh, dẫn đến điên loạn, bị tai biến, đột quỵ và rất nhiều bệnh khác.

Ta sống
giữ được 5 giới trên sẽ giúp cho thân tâm trong sạch, hay nói cách khác là kiểm
soát
được hành động hằng ngày của mình. Chính vì thế, giới là nguồn an vui,
hạnh phúc của nhân loại, là tài sản quý báu của con người. Ai gìn giữ được trọn
vẹn
sẽ giúp chính mình xây dựng tốt ngôi nhà tâm linh bền vữnglâu dài. Vậy
tại sao chúng ta không noi theo gương hạnh của đức Phậtxây dựng tường vách
vững bền cho ngôi nhà tâm linh bằng những sinh hoạt thiết thực là chia vui sớt
khổ và tu hạnh lắng nghe theo tinh thần của Bồ tát Quán Thế Âm? Khi tâm ta
thanh tịnh, lặng lẽ, sáng trong thì cuộc sống sẽ bình an, hạnh phúc. Chúng ta
sẽ có tuệ giác tâm linh dẫn đường để vượt qua những chướng duyên, nghịch cảnh
mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Muốn tránh bị nhân quả xấu không
gì khác hơn ta phải biết tu tâm dưỡng tánh để chuyển hóa nỗi khổ,
niềm đau mà vươn lên vượt qua số phận, làm mới lại chính mình. Ta không thể cầu
xin
Phật, Bồ tát giúp cho ta mà chính mình phải biết đóng góp, dấn thân và
buông xả. Nếu muốn Phật tâm hiển lộ thì bắt buộc người đó phải sống tỉnh thức,
biết tự chủ, từ bỏ lòng tham lam, sự sân giận, tính si mê để có nhận thức sáng
suốt
; phải biết đâu là chân thật, đâu là giả dối. Sự hiểu biết chân chính rất
quan trọng, nhưng muốn nhận thức đúng đắn chúng ta phải biết thực hành phước-huệ
song tu ngay trong đời sống hằng ngày. Làm phước là giúp đỡ vật chất hay giảng
dạy Chánh pháp để khuyên mọi người tin sâu nhân quả, biết buông xả phiền não
tham-sân-si. Tu huệ là biết quán chiếu, soi sáng lại chính mình nên biết được
thật-giả phân minh của thân tâmhoàn cảnh; nhờ vậy mới biết cách buông xả
những tham lam, sân giận, si mêthể nhập Phật tính sáng suốt nương nơi thân
với mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

Khi nói đến tâm linh người ta thường nghĩ đến cái gì huyền
bí, xa xôi ở phương trời nào đó. Thật ra, nói đến tâm linh là nói đến nhân cách
sống
đạo đức của một con người cùng với sự dấn thân đóng góp và phục vụ. Đó
chính là sự biểu hiện của một người qua ý nghĩ, lời nói, hành động; là chính
những hành động sống lương thiện, hay giúp người, cứu vật có tác động đến mối
quan hệ giữa người này với người khác, đến môi trường xã hội hoặc thiên nhiên,
cuộc sống. Tuy nhiên, nói như vậy cũng chưa thật đầy đủ, bên cạnh đó còn phải đòi
hỏi con người phải có kiến thức hiểu biết chân chính. Mọi sự ngu dốt cũng mang
lại nhiều tai hại, muốn tránh những điều xấu xa, tội lỗi chúng ta phải có hiểu
biết
đúng đắn dựa trên nền tảng nhân quả. Chúng ta hiểu biết đời sống không
phải là độc lập, riêng lẻ mà là sự nương dựa vào nhau trong mối tương quan
chằng chịt; cái này sống thì cái kia sống, cái này chết thì cái kia chết; cái
này chết để cái kia sống và cái này sống thì cái kia chết. Đó cũng là sự nương
tựa vào nhau theo nguyên lý nhân duyên trùng trùng duyên khởi.

“Cái này chết để cái kia sống” cũng như khi con người sống
phải nhờ vào lương thực thực phẩm, tức phải ăn uống; dù thánh thiện như ăn chay
thì rau củ cũng phải nhổ lên, tức là có sự chết; nếu ăn thịt cá thì ta phải
giết hại các loài súc vật để ăn. Đó là nguyên lý tương quan, tương duyên “cái
này chết để cái kia sống”, cứ như thế mà sống chết đắp đổi, tiếp nối nhau không
có ngày cùng. Chính nguyên lý duyên khởi này mà con người và muôn loài vật có
sự liên hệ mật thiết với nhau. Con người vì lòng tham lam quá đáng mà khai thác
bừa bãi sẽ tạo ra sự hủy diệt nhân loạithiên nhiên vừa cung cấp, nuôi nấng mà
vừa bảo vệ cuộc sống con người. Vì lòng tham tài nguyên thiên nhiêncủa cải
vật chất nên làm mất đi giá trị tâm linh nơi con người. Nếu con người không
biết tôn trọng nhau trong tình thương yêu chân thật thì xã hội sẽ rơi vào cảnh
hỗn loạn, chiến tranh; cũng như vì quyền lợi riêng tư mà chúng ta khai thác quá
mức
khiến tài nguyên cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Như vậy,
những việc làm của con ngườiliên hệ tới thiên nhiênthế giới muôn loài
vật. Nếu chúng ta không biết nương tựa vào nhau và quay lại chính mình để sống
với con người tâm linh thì nhân loại sẽ không biết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ
lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Ta thấy, tâm
linh
không phải là cái gì trừu tượng, khó hiểu mà nó là sự việc có thật và luôn
sống động diễn ra trong mỗi phút giây của đời sống con người. Chúng ta sống cần
phải
ý thứchiểu biết, hằng ngày cần phải biết kiểm soát chặt chẽ từ suy
nghĩ
cho đến lời nói và hành động của mình. Sông Sài Gòn và nhiều dòng sông thơ mộng
khác trong đất nước Việt Nam đang trở thành những dòng sông chết, bầu khí quyển
toàn cầu cũng đang thoi thópô nhiễm do tầng ozon đã bị chọc thủng…, tất cả
đang đe dọa nghiêm trọng sự sống của muôn loài vật trên thế gian này. Nguyên
nhân
chủ yếu chính vì lòng tham muốn quá đáng và sự ích kỷ, hẹp hòi của con
người
. Kinh tế thị trường không lành mạnh bởi những dịch vụ quảng cáo sai sự
thật
, chủ yếu là kích thích lòng tham của con người nên nhân loại ngày càng dính
mắc vào vật chất nhiều hơn mà quên lãng phần tâm linh của chính mình.

Không ai có thể lường trước được tai họa nặng nề sẽ xảy ra trong nay
mai của việc dùng hóa chất độc hại vào thức ăn, thức uống để con người tiêu thụ. Cứ
trên đà phát triển toàn cầu hóa xã hội mà không có sự cân nhắc kỹ lưỡng vì thiếu hiểu biết
không tin sâu nhân quả thì con người sẽ phải gánh chịu nhiều loại dịch bệnh vì
ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thức ăn, ô nhiễm phim ảnh, sách báo đồi trị… Với khuynh
hướng phát triển thiếu ý thức trách nhiệm này mà con người của thế hệ hiện tại
mai sau sẽ gánh lấy hậu quả nặng nề. Người làm ngành y thì chế biến thuốc
không đúng tiêu chuẩn như đã giới thiệu, kẻ thiếu lương tâm chuyên chế biến
thuốc giả, thuốc lậu mà làm lũng đoạn nền kinh tế thị trường. Con người do lòng
tham lam quá đáng chỉ biết làm sao có lợi cho riêng mình mà mặc tình làm cho
bao người phải bệnh hoạn hay chết chóc.

Vậy chúng ta
phải làm thế nào để được sống với con người tâm linh của chính mình? Tâm linh được biểu lộ qua ý nghĩ, lời
nói
, hành vi qua việc làm, qua sự va chạm tiếp xúc với người khác, qua cảm thọ,
qua vật chấtđời sống hiện tại. Người ta ít ai để ý hoặc hiểu về mối quan hệ
giữa tâm linh và thể xác. Chúng ta hãy thử dành ít phút giây lắng lòng lại để
thể nghiệm chính mình. Khi cơn giận nổi lên ta cảm thấy tim đập mạnh, cũng như
không
thể ăn uống bình thường được. Như vậy, nếu ta giận dữ thường xuyên dễ đưa
tới
tổn thương nội tạng nặng nề, con người sẽ dễ bức xúc và cáu gắt. Hoặc người
thích ăn món ngon vật lạ, tức thích hưởng thụ trong sự đau khổ của các loài
vật, họ ăn uống vô độ nên bệnh béo phì phát sinh mà dẫn đến nhiều bệnh tật.

Bất kỳ ước muốn nào để thỏa mãn đều đưa tới lòng tham lam,
ích kỷ. Khi lòng tham phát sinh người ta hay có khuynh hướng bảo thủ, cực đoan,
rồi từ đó đánh mất chính mình. Như vậy, thân và tâm có quan hệ với nhau vì ý
suy nghĩ, miệng nói năng, thân hành động tốt hay xấu. Chính vì vậy, tâm linh
con ngườixã hội luôn gắn liền và liên quan mật thiết với nhau. Khi một con
người
không làm chủ được bản thân, không kiểm soát được tư tưởng, hành vi của
mình, họ luôn hành động theo lòng tham muốn ích kỷ, theo cảm tính cá nhân để thỏa
mãn
sự cảm thọ của thân xác. Vậy chúng ta biết sống tỉnh giác trong từng phút
giây là ta đã sống có tự chủ, kiểm soát được ý nghĩ mà hành động sáng suốt để
giúp người cứu vật, nhờ đó mà tránh được nhiều quả xấu trong đời.

Do đó, nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc
gia
không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà tạo thành
quả
báo. Có thể nói, thói quen huân tập nhiều đời tốt hay xấu tạo nên tính tình
thành nhân cách riêng của mỗi người. Cái riêng đó thành nhân quả cá nhân,
nếu nhiều cái riêng tương đồng hợp lại sẽ thành cộng nghiệp nhân quả chung. Đời
sống
con ngườixã hội được hình thành là do sự diễn biến nhân quả chung và
riêng mà trở thành một dân tộc, cộng đồng của đất nước đó.

Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người nên ngu dốt cũng
đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đìnhxã hội. Nếu ta sống chung với
nhiều người ngu dốt thì bản thân sẽ gánh lấy nhiều hậu quả không thể lường
được. Có thể nói, ngu dốt là không có kiến thức, không tin sâu nhân quả, không
hiểu biết chân chính về mối tương quan trong thế giới mình đang sống. Ngu dốt
cũng có thể là cố chấp, không chịu học hỏi hay lắng nghe. Chính vì lẽ đó, con
người
ngu dốt vì thấy biết sai lầmđưa tới hành động tội lỗi làm tổn thương
cho người và vật. Ngu dốt sẽ dẫn dắt chúng ta vào con đường tối tăm, khi ta
sống trong sự vô minh che lấp thì suốt cuộc đời phải chịu đau khổ lầm mê mà không
biết chừng nào mới thoát được. Người không học thức đương nhiên là ngu dốt,
nhưng người thiếu học hỏi, không chịu lắng nghe, không chịu bàn bạc, tham khảo,
cố chấp, độc đoán cũng thuộc hạng người siêu ngu dốt. Cho nên, chúng ta không
biết phát huy con người tâm linh, không có ý chí mạnh mẽ thì không thể nào vượt
qua
cạm bẫy cuộc đời mà vươn lên làm mới lại chính mình. Một người không có trí
tuệ
thì không sao có nhận thức đúng đắn, nhưng có trí tuệcố chấp, không
chịu buông xả thì sẽ bị vấp ngã trở lại. Khi chúng ta đã đánh mất con người tâm
linh
của chính mình thì ta sẽ bị sa đọa, khổ
đau bởi si mê, nghiện ngập đủ thứ.

Không
có gì giá trị và đẹp bằng sự thật.
Trong thực tế cuộc sống ít ai dám nói sự thật, phô bày sự thật nên sự thật
có xấu đến mấy vẫn đẹp hơn sự dối trá. Không có gì đẹp và cao thượng bằng sự thật.
Sự thật thì không thể nào né tránh được, nhưng con người ta vẫn cố tình che giấu
vì sợ mọi người biết. Có những sự thật mà chỉ khi nào con người đủ lớn
khôn và có hiểu biết chân chính nhờ biết nghiệm xét, tư duy mới hiểu được giá
trị
thật của nó. Cuộc đời không chỉ có màu hồng mà lúc nào bên cạnh nó vẫn có
những màu đen đan xen lẫn nhau. Người có học thức cao thì càng khéo léo che giấu,
bưng bít những sự thật không được trong sáng vì ai cũng thích được khen hơn bị
chê.

Một
mình
chúng ta không thể hiểu biết hết mọi lĩnh vực trong cuộc sống nên sự sống
của mọi người cần phải nương nhờ lẫn nhau qua nhịp cầu tương quan, tương thân,
tương trợ mật thiết không thể tách rời nhau. Vì tình thương yêu nhân loại bằng
trái tim hiểu biếtcon người có thể đóng góp và hỗ trợ cho nhau về mọi
phương diện giáo dục, kinh tế, chính trị và đời sống tâm linh. Thế gian là một
trường đời hỗn hợp mang nhiều sắc thái đa dạng, phức tạp, chúng ta không biết đối
xử với nhau bằng con người tâm linh thì dễ dẫn đến oán giận, thù hằn vay trả
không có ngày thôi dứt. 

Điều
quý giá và thiêng liêng, cao cả nhất mà các bậc hiền Thánh luôn quan tâmlo
lắng
là mối quan hệ xã hội bằng tình người trong cuộc sống cùng với trái tim
yêu thươnghiểu biết. Do chúng sinh tạo nghiệp bất đồng nên mọi ngườihiểu
biết
cách sống khác nhau tùy theo nghiệp huân tập. Luật pháp do con người đặt ra tùy
vào một số người nắm cán cân công lý nên con người có thể thay đổi
và dễ dàng bẻ cong luật pháp nhờ những thế lực cầm quyền. Đối với luật nhân quả
nghiệp báo thì không đơn giản thế, chúng ta đừng bao giờ hy vọng qua mặt được nhân
quả
vì khi hội đủ nhân duyên dù trăm kiếp ngàn đời cũng không thể trốn thoát.
Dù ta đang ở địa vị cao nhất của loài người thì khi phước hết ắt họa ập đến mà
phải gánh lấy hậu quả khổ đau do chính mình gây tạo. Chỉ khi nào ta thanh toán
hết món nợ nhân quả chính mình đã gieo dù cố ý hay vô tình thì mới không còn bị
ràng buộc bởi nghiệp quả.

Do đó,
chúng ta hãy nên suy ngẫm, chiêm nghiệm, kiểm tra chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói
cho đến hành động để không làm tổn hại đến muôn loài vật thì mới có thể chuyển
hóa
khổ đau hay buông xả dính mắc. Khi có được tấm lòng yêu
thương
chân thật ta sẽ cảm thấy ấm áp và bình yên, hạnh phúc; nhưng khi bị người
ghét bỏ mình sẽ phải sống trong cô đơn, lo lắngsợ hãi. Cuộc đời này chúng
ta
sống là để yêu thương, an ủi, giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống.
Ta cho đi cái gì sẽ được nhận lại cái đó theo quy luật nhân nào quả nấy. Bởi thế,
ta hãy luôn vui vẻ, hân hoan, phấn khởi với những gì mình đã cho đi bằng trái
tim hiểu biết. Tất cả mọi ngườixuất gia hay tại gia cũng đều là đệ tử Phật, ai cũng
đang hướng về cuộc hành trình tâm linh của chính mình để sống đời giác ngộ,
giải thoát. Vì vậy, chúng ta không nên đi theo con đường du lịch tâm linh của
người thế gian bằng cách cầu khẩn, van xin mà không chịu gieo nhân tốt để gặt
quả tốt và tu tập để chuyển hoá phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ
từ bi.

Trên bước đường tu học hay trên
cuộc hành trình trở về cội nguồn tâm linh Phật dạy nhiều phương pháp giúp chúng
ta
tiến tu tùy theo căn cơ,
hoàn cảnh của mỗi người. Điều này thường được gọi là Ngũ thừa Phật giáo, hay Tam
thừa
Phật giáo, hoặc Nhất thừa Phật giáo. Đây chính là những con đường tâm linh
Đức Phật đã trải nghiệm mà đạt đến kết quả cao nhất. Là đệ tử Phật chắc chắn
chúng ta cần đi theo con đường tâm linh này vì không có con đường nào khác dẫn
chúng ta đến giải thoát sinh tử khổ đau.

Hoàn cảnh, sự sống của mỗi người
không giống nhau vì chúng ta huân tập và gây tạo nghiệp báo bất đồng nên tùy theo nhân duyên thuận nghịch
mỗi người chọn lựa pháp tu thích hợp. Nói cho dễ hiểu, trong xã hội nào cũng có
hai hạng người là giàu và nghèo. Tuy có nhiều người nghèo nhưng cũng có mức độ
chênh lệch khác nhau, những người giàu cũng có sự không đồng đều về tài sản vật
chất
sở hữu. Hai giới giàu nghèo tuy có cuộc sống khác nhau, một bên có nhiều
tiền bạc của cải, một bên thiếu thốn mọi bề; nhưng họ đều có chung một điều là
sự khổ đau vì luôn bị sự giàu nghèo làm cho dính mắc. Thiếu thốn vật chất thì
muốn có được đầy đủ, khi có rồi thì sợ hao hụt, mất mát nên bằng mọi cách cố
gắng
gìn giữ, do đó phát sinh tham lam, bỏn sẻn. Những người giàu có ta đừng
tưởng họ sung sướng, hạnh phúc. Có khi họ còn khổ sở hơn người nghèo bởi tiền
bạc, của cải nhiều không mang lại cuộc sống an vui, hạnh phúc. Tâm người giàu
luôn lo sợ bị mất mát của cải, vật chất họ đang có nên họ khổ. Cũng vậy, những
người nghèo lại quá khó khăn nên cuộc sống luôn vất vả, nhọc nhằn mà không có
một ngày no đủ. Chính vì vậy, nỗi khổ, niềm đau đối với họ là lẽ đương nhiên.

Trong hai hạng người giàu và nghèo
thuộc giới cư sĩ tại gia chúng ta vẫn nhìn thấy nhiều gương người tốt, việc tốt
với tinh thần dấn thân, đóng góp, phục vụ vì lợi ích cộng đồng xã hội. Họ có
thể làm vua, làm thủ tướng, làm giám đốc, làm bác sĩ, làm luật sư, làm giáo
viên, hay chỉ là những người dân bình thường với đủ thứ ngành nghề khác; nhưng
nhìn kỹ vào việc làm của họ ta mới biết họ là những vị Bồ tát đem chất liệu
bình an đến cho tha nhân, họ sống thương người, giúp đời một cách bình đẳng
không bao giờ nghĩ đến quyền lợi riêng tư. Đó là những vị Bồ tát theo tinh thần
của Kinh Pháp Hoachúng ta cần phải thấu suốt để cùng hợp tác trên bước
đường tu học chuyển hóa tham-sân-si. Thế giới con người chúng ta luôn có những vị Bồ tát
như vậy thì xã hội mới giảm bớt sự tối tăm, mờ mịt. Các vị Bồ tát luôn hiện
thân
ở đời với nhiều hình thức để ủng hộ, duy trì, gìn giữ Phật pháp; đem nước
mát từ bi rưới khắp nhân gian nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Đối với hai hạng người tại gia
giàu và nghèo Phật cũng tùy theo căn cơ mà hướng dẫn cho họ tu học để được lợi lạc. Người
giàu có tượng trưng cho chư Thiên đã tạo quá nhiều phước ở đời trước nên đời
này được hưởng phước báu đầy đủ tiện nghi vật chất. Người nghèo vì không biết
bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia trong nhiều đời nên hiện tại phải chịu quả
báo
thiếu thốn, khó khăn. Nếu người giàu ỷ lại mình có nhiều phước báovui
chơi
sa đọa thì đến khi
phước hết họa đến cũng
chịu nhiều bất hạnh, khổ đau. Cũng vậy, tuy nghèo trong hiện tại nhưng nhờ biết
tin sâu nhân quả mà ta cố gắng làm lành, tránh dữ thì trong tương lai cũng có thể
chuyển được kiếp nghèo khó và ngày càng hoàn thiện chính mình. Nhưng cuộc sống
của thế gian nếu có hạnh phúc lắm cũng chỉ là tạm bợ trong 3 cõi 6 đường luân
hồi-sinh tử. Vì lòng từ bi vô hạn Phật chỉ ra những phương pháp cho người tại
gia
dù giàu hay nghèo đều được học hỏitu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm
đau thành an vui, hạnh phúc lâu dài.

Xã hội ngày nay có rất nhiều vị Bồ
tát
ủng hộ xây chùa, in Kinh, đúc tượng, truyền bá Phật pháp và giúp đỡ người
bất hạnh, khó khăn trong mọi hoàn cảnh. Một phần nhờ vào sự giúp đỡ của chính
quyền các cấp cho phép và nhất là các cư sĩ Bồ tát tại gia hoan hỷ, vui vẻ, hết
lòng
đóng góp, hỗ trợ nên mọi việc mới được thực hiện tương đối dễ dàng. Đối
với những Bồ tát chọn cuộc sống tại gia để hộ trì Tam bảo Đức Phật hướng dẫn
con đường tu Nhân thừa siêu thoát. Đó là 5 giới pháp nhiệm mầu giúp chuyển hóa si mê, tối tăm, mời mịt thành
trong sáng, hiện thực bằng tấm lòng từ bi rộng lớn.

Đức Phật thường quan tâm thương
xót
đến hai hạng người giàu và nghèo tại gia để tìm cách giúp đỡ họ vượt qua
biển khổ sông mê, hướng họ đến đời sống thánh thiện bằng cách quy hướng Tam bảo
thọ trì 5 giới pháp. Hai giới tại giaxuất gia sống tốt đẹp như vậy nhờ
biết kết hợp hài hoà làm cho đạo Phật được phát triển và hưng thịnh. Nếu chỉ có
giới xuất gia tu học mà không có người tại gia ủng hộ tích cực về mọi phương
diện
thì đạo Phật sẽ không thể phát triển rộng rãi được. Ngược lại, giới tại
gia
hết lòng hộ trì Phật pháp nhưng không có các bậc hiền Thánh Tăng tu học chân
chính
để hướng dẫn, chỉ dạy thì cũng không thể làm cho đạo Phật được duy trì
lâu dài. Phật giáo thịnh hay suy là do ý thức tu học của mỗi người biết kết hợp
hài hoà giữa đạo và đời để làm lớn mạnh thêm sự yêu thương bình đẳng bằng trái
tim hiểu biết.

Việc thực hành 5 giới và 10 điều
thiện lành giúp chúng ta sống có nhân cách đạo đức tốt mà hoàn thiện chính
mình. Song, bên cạnh đó ta phải biết kết hợp hài hoà với Tam thừa giải thoát
Thanh văn (nhờ nghe Phật thuyết pháp mà tu tập
pháp Tứ Đế khổ-tập-diệt-đạo và 37 phẩm Bồ đềđược giải thoát), Duyên
giác
(còn gọi là Bích Chi Phật- Những bậc Thánh
sinh vào thời không có Phật, nhờ tu pháp 12 nhân duyên vô minh-hành-thức-danh
sắc-lục nhập-xúc-thọ-ái-thủ-hữu-sinh-lão-tử mà chứng đạo giải thoát ra khỏi
sinh tử) và Bồ tát (bậc Thánh tu
nhân-thiên đạo và giải thoát đạo, nghĩa là giải thoát khỏi sinh tử mà vẫn không
lìa sinh tử để có thể hóa độ những chúng sinh có duyên). Hàng Thanh văn,
Duyên giác chỉ tu lợi ích cho mình nhiều hơn mà ít đi vào đời để dấn thân đóng
góp và giúp đỡ, sẻ chia. Chính yếu vẫn là hàng Bồ tát xuất giaBồ tát tại
gia
với thân-miệng-ý thanh tịnh, trong sáng nhờ biết buông xả phiền não tham-sân-si
mà làm lợi ích cho đời với tinh thần chia vui sớt khổ bằng tình người trong
cuộc sống. Thế gian này nếu thiếu hai hạng Bồ tát vừa kể trên sẽ là bãi chiến
trường đẫm máu vì sự tham lam, ích kỷ của con người.

Trong hàng Tam thừa Phật giáo Bồ
tát
vẫn hơn Thanh vănDuyên giác về công hạnh độ tha bền bỉ, lâu dài; nhưng
chúng ta lại thường nghĩ 2 giới người tại gia tu là Nhân thừaThiên thừa (tu
giữ 5 giới và làm 10 điều lành để có thể tái sinh cõi người hay cõi trời) thấp
hơn giới Tam thừa giải thoát (tu để giải thoát khỏi luân hồi sinh tử) của người
xuất gia. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, con người là quan trọng chính yếu
tất cả sự thay đổi nơi thế gian để mở mang, phát triển nhằm phục vụ lợi ích cho
nhân loại đều từ bàn tay, khối óc con người mà nên. Chúng ta có được an vui,
hạnh phúc, được vật chất đầy đủ không phải để an hưởng cho riêng mình mà phải sẵn
sàng chia vui sớt khổ vì lợi ích chúng sinh.

Phật dạy trong 6 đường luân hồi
sống chết con người là một chúng sinh cao cấp hơn hẳn các loài khác nhờ biết
suy nghĩ, tư duy sáng suốtphân biệt đúng-sai nên dễ thành tựu hạnh sẻ chia
buông xả viên mãn với nhiều hình thức độ sinh. Bồ tát Quán Thế Âm ứng hiện
nhiều thân, nhất là ở Việt Nam đâu đâu cũng thờ Ngài dưới hình tướng một người
nữ mà không thờ dưới hình thức thầy tu. Ta tu theo hạnh Bồ tát lợi tha để thành
tựu
Phật đạo thì phải dấn thân chia sẻ và nâng đỡ mọi người vươn lên vượt qua
cạm bẫy cuộc đời để sống bình yên, an vui và hạnh phúc. Cho nên, trong số người
đời ta có thể biết được ai là Bồ tát hiện thân, tức là người có lòng từ bi, có
trí tuệ và luôn đóng góp, giúp đỡ, sẻ chia, làm được những việc khó làm.

Chúng ta xuất giathực phẩm
tiêu dùng hằng ngày và được yên ổn tu hành thì phải nhớ đến những người đã tạo
ra thực phẩm, những người giữ an ninh trật tự, những đàn na tín thí hỗ trợ,
đóng góp mà luôn cố gắng, nỗ lực tu hành chuyển hóa phiền não tham-sân-si, trên cầu quả Phật,
dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Các vị Bồ tát đi vào đời dưới nhiều hình thức
xuất gia lẫn tại giaphát nguyện thành tựu Phật đạo bằng con đường hành Bồ
tát đạo
sẽ tái sinh trở lại để dấn thân đóng góp và làm việc phục vụ lợi ích
tha nhân. Có vị là chân tu thạc đức, có vị làm vua, làm tướng, làm người nữ,
người nam hay đủ mọi hình tướng, hoàn cảnh để phục vụ nhân loại. Hai chúng Bồ
tát xuất gia
Bồ tát tại gia hợp tác với nhau mật thiết thì Phật sự dễ dàng
thành tựu theo chiều hướng tốt đẹp.

Riêng Phật giáo Nam tông hay Phật
giáo nguyên thủy
của người
Việt Nam thì không thọ giới Bồ tát. Giáo lý được phân làm hai truyền thống
theo địa lý truyền thừa và được gọi là Phật giáo Bắc tôngPhật giáo Nam
tông
. Phật Giáo Bắc tông theo khuynh hướng phát triển lời Phật, còn Phật Giáo
Nam tông theo khuynh hướng bảo thủ nguyên xi lời Phật và các Thánh Tăng đệ tử
thuyết trong 5 bộ Kinh truyền thống. Truyền thống Bắc TôngNam Tông có những
khác biệt. Tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm
tương đồng lại rất cơ bản. Cả hai đều
nhìn nhận Đức Phật Thích ca là
bậc Đạo sư, đều chấp nhậnhành trì giáo lý Tứ thánh đếBát chánh đạoDuyên khởi…;
đều chấp nhận Tam pháp ấn KhổKhôngVô ngã;
đều chấp nhận con đường tu tập GiớiĐịnhTuệ. Tuy nhiên, Nam tông có khuynh hướng
giải thoát ngay tại kiếp này bằng cách đạt Niết Bàn ngay trong đời hoặc nếu tu
chưa đạt thì tiếp tục tu trong các lần tái sinh kế tiếp cho tới khi viên mãn.
Phái Bắc tông thì theo Bồ Tát Đạo, là đạo không đạt Niết Bàn ngay hiện tại
tu các hạnh Ba La Mật cho đến vô số kiếp rồi mới thành Phật Chánh Đẳng Giác như
Phật Thích Ca.

Chúng xuất gia chuyên học hỏi, tu
tập
, thuyết pháp giảng Kinh, xây dựng con người đạo đức, tâm linh. Chúng tại
gia
hộ trì Tam bảo và cùng chúng xuất gia tu tập chuyển hóa và hỗ trợ lẫn nhau. Hai chúng tại
gia
xuất gia phải biết cách hợp tác để làm lợi ích cho đời, nhưng phải có tu
tập
mới chuyển hóa nỗi khổ,
niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Vì vậy, để tránh hai cực đoan trên các vị Bồ
tát
tùy theo tâm nguyện mà làm nhà sư,
làm thủ tướng, làm kẻ trồng trọt hoa màu hay làm nhà kinh doanh… để hỗ trợ nhau
cùng thành tựu Phật pháp. Chúng xuất gia giữ gìn Chánh pháp của Phật và tu tập
làm gương cho nhân thế, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn giúp mọi người thoát ra
biển khổ sông mê mà làm người có ích. Tấm gương sáng của người xuất gia
không kẹt vào danh vọng, lợi dưỡng, tiền bạc và sự cung kính. Họ là người tu
theo hạnh giác ngộ, giải thoát nên muốn ít biết đủ, sống đời đơn giản, đạm bạc.
Giới cư sĩ tại gia thì hộ trì Chánh pháp, giúp Tam bảo trường tồnthế gian
duy trì giống nòi nhân loại.

THẾ GIAN NẶNG
VỀ VẬT CHẤT HƠN TINH THẦN 

Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi
có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta thường lo cho
phần ngọn nhiều hơn là phần gốc. Có những việc cần thiếtchúng ta không lo,
chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dàitài
sản
quý giá của chính mình. Trong cuộc
sống chúng ta có ba việc quan trọng là ăn-uống-thở, thường thì chúng ta lo việc
nào nhiều nhất. Đa số mọi người trên thế gian này lo ăn-uống là
chính. Tối ngày làm lụng vất vả chỉ để lo ăn, lo uống nên tham đắm, dính mắc
vào đó. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị. Làm vua thì bắt người
khác cung phụng đầy đủ, dù ở tận rừng sâu hay biển cả mênh mông cũng bắt người
tìm kiếm. Nhưng xét cho kỹ nhịn ăn trên 60 ngày trở lên mới chết. Còn xét về
uống thì người có hiểu biết chỉ cần dùng nước tinh khiết hoặc nước đun sôi để
nguội là được. Vì không hiểu biết nên chúng ta phải đưa các thứ nước ngọt, rượu
bia vào nhiều để thoả mãn cảm giác trong khi vừa tốn tiền, hao phí mà lại bệnh
tật; kèm theo đó là nghiệp si mê, nhất là với cánh đàn ông. Thật ra, ta phải nhịn
uống trên 10 ngày mới chết.

Vấn đề thở là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, nhưng ít ai nghĩ đến
mình nhịn thở bao lâu mới chết. Trong tích tắc thở ra mà không thở vào là chết
ngay. Vậy mà người đời lại quan trọng việc ăn với uống, còn thở ra sao không
cần biết. Rõ ràng, việc tối quan trọng chúng ta lại lơ là, việc không chính
đáng
thì ta nỗ lực, làm việc nhọc nhằn, vất vả để thỏa mãn bản
thân
. Như vậy hằng ngày ta chỉ lo việc bồi bổ thân này mà quên đi làm thế nào
để được phước đức lâu dài, quên đi tài sản quý giá không bao giờ bị mai một.

ĂN-UỐNG-THỞ CÁI NÀO QUAN TRỌNG HƠN

Cuộc sống của chúng ta trong thời đại hiện nay có quá nhiều
thứ bệnh thuộc bộ máy tiêu hóahô hấp phát sinh từ sự ăn uống, hít thở không
đúng đắn. Một số người ít hoạt động tay chân nên phát sinh rất nhiều bệnh tật.
Chính vì thế, muốn thân khỏe mạnh, tâm an ổn nhẹ nhàng, chúng ta cần phải biết
điều
hòa trong ăn uống, hít thở đúng cách và vận động thân thể nhiều bằng cách
lạy Phật, Bồ tát, vừa sám hối nghiệp tập nhiều đời, vừa rèn luyện sức khoẻ để
khí huyết lưu thông đều đặn toàn thân. Theo sự hiểu biết của chúng tôi,
cơ thể mỗi người có nhu cầu tiêu thụ thức ăn uống khác nhau nên cần tổ chức cho
đại chúng ăn theo cách tự chọn hoặc ăn kiêng. Người bình thường ít bệnh thì ăn
theo tiêu chuẩn chung. Người có thân bệnh nhiều cần phải ăn kiêng theo sức khoẻ
của mình, vừa hợp vệ sinh, vừa hợp khẩu vị mà lại không tốn kém.

Nói về thức ăn, Phật dạy chúng ta rất kỹ lưỡng. Theo Ngài,
người xuất gia hay tại gia có bốn món ăn là Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm
thực
Thức thực. Đoàn thựcthức ăn vật chất được ăn bằng miệng để nuôi cơ
thể sống còn mà tu hành. Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn
nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích
hợp
với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm nên đưa ra pháp tu
tương ứng nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh. Cách thức ăn uống
của người Việt tương đối lành mạnh, nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách
thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết
hoặc dư chất bổ dưỡng.

Đại đa số chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của
nước đối với cơ thể con người nên thường uống quá ít nước hoặc có uống thì dùng
các chất khác như các loại nước ngọt hay rượu bia. Cách tốt nhất là uống nước
mỗi ngày từ 2 lít đến 2,5 lít bằng nước đun sôi để nguội. Thân thể thiếu
nước nên sinh ra nhiều bệnh tật như táo bón, nhức đầu, trĩ, sạn thận, thận suy,
áp huyết cao, viêm gan siêu vi B và bụng hay sình chướng, khó tiêu… Từ đó chúng
ta
dễ trở nên giận dỗi, cáu gắt, hay nóng nảy, khó chịu, khiến cho không khí
gia đình trở nên căng thẳng, mất tươi vui, hạnh phúc. Lượng nước trong cơ thể
chiếm 70% dưới mọi hình thái của nó do đó các tế bào và mọi bộ phận trong thân
thể
cần có lượng nước nhất định. Ngoài việc tắm rửa hằng ngày để da dẻ sạch sẽ,
mịn màng, chúng ta ta cần uống lượng nước cần thiết để điều hoà thân thể khoẻ
mạnh. Muốn tránh các thứ bệnh nói trên chúng ta cần phải uống nhiều nước, chừng
hai ba ly ngay sau khi ngủ dậy mỗi sáng và trước khi đi ngủ buổi tối để giúp bộ
máy tiêu hóatuần hoàn hoạt động tốt, dễ dàng lọc máu và thải mọi cặn bã ra
ngoài.

Người
cư sĩ tại gia nên ăn
nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt, nhiều cá, nhưng phải biết chọn lựa loại nào
ít nhiễm độc.
Một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống
không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn. Giảm bớt chất béo trong máu sẽ
tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan. Để quân bình trong cuộc sống
ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ
trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ
các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể. Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn
là chiên, xào, nướng. Ngoài ra, chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương
trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại
thịt cá thuộc loại âm thường được nấu nướng hay ăn với các thứ gia vị và rau
thuộc loại dương, và ngược lại. Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông
không đều đặn, do ít hoạt động chân tay nên không chuyển tới các cơ phận mọi
chất liệu cần thiết, nhất là hồng huyết cầu và dưỡng khí. Do đó, một trong
những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, uốn
éo thân mình, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy
Phật
, Bồ tát mỗi ngày. 

Một hôm, Phật hỏi
các vị Tỳ kheo: “mạng người sống trong bao lâu”? Một thầy trả lời: “mạng người
sống chừng 80 năm”. Phật hỏi vị khác, thầy đó trả lời:” mạng người sống trong bữa
ăn”. Hai vị thầy trả lời Phật đều không chấp chận. Ngài hỏi tiếp vị thứ ba và
vị này trả lời “mạng người sống trong hơi thở”. Phật nói, “đúng thế, đời người
chỉ dài bằng một hơi thở”, bởi thở vào mà không thở ra thì xem như mất mạng. Ta
có thể quên ăn một hai chục ngày vẫn được mà không chết, chính chúng tôi những
năm nhiều bệnh phải nhịn ăn mỗi lần ba bốn tuần, hai ba lần như vậy mỗi ngày
chỉ uống nửa lít nước đun sôi để nguội. Vấn đề nhịn uống cũng phải trên 10 ngày
mới chết, bằng chứng là có một thầy nhịn ăn uống hai tuần chỉ mất sức đi không
nỗi, sau ăn uống lại thầy vẫn lao động, làm việc nặng nhọc mà chẳng áp phê gì;
nhưng thở ra mà không thở vô là chết ngay liền tức khắc.

Chúng
tôi
có đứa em gái kế thầy Nhật Từ làm việc bên Ủy
ban nhân dân Quận Thủ Đức, đang đứng nói chuyện trước mặt nhiều người thì bỗng
nhiên nói nhức đầu rồi ngã lăn ra chết. Vì sao? Vì không còn thở nữa! Thở là
một nghệ thuật sống nhưng ít ai quan tâm đến, suốt ngày này đến tháng kia, năm
nọ chỉ lo ăn với uống mà quên đi hơi thở của mình. Ngày xưa đức Phật đa số dạy
các tỳ kheo quán hơi thở, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết thở ra, đến
khi thuần thục không cần theo dõi hơi thở nữa mà chỉ nhìn hơi thở vô ra dài
sâu, nhờ vậy tâm an địnhtrí tuệ phát sinh. Khi tâm an định, rỗng rang, bớt
đi tạp niệm thì trí nhớ phát triển, tuệ giác tâm linh khai mở, nhờ vậy ta nhận
biết
cuộc sống vô thường, mạng sống vô thường và muôn loài vật cũng lại như
thế. Mạng sống chúng ta ngắn như một hơi thở, nhờ thường xuyên quán sát như thế
ta sẽ thấy biết đúng như thật nên dễ dàng buông xả phiền não tham-sân-si mà tự
tại
, giải thoát.

ĂN UỐNG NHƯ
THẾ NÀO MỚI ĐÚNG

Chúng ta
thường nghe nói “có thực mới vực được đạo”, tức có ăn mới tu hành
được. Đây không chỉ là một câu nói vui đùa bâng quơ mà là một sự thật. Chính
vậy
, ăn uống đã trở thành nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày của dân
tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện qua câu nói “miếng trầu làm đầu câu
chuyện”. Ông cha ta nhận thấy ăn uống là sự tự do của mỗi người nên dân gian có
câu “trời đánh còn tránh bữa ăn”. Xã hội thường coi việc mời ăn, mời
uống, tặng quà cáp cho nhau như một vấn đề giao tế trong mực thước đo lòng
người. Do đó, “bánh ít đổi đi, bánh quy đổi lại” hay “có đi, có lại mới toại
lòng nhau”. Dĩ nhiên, đó cũng là một nhu cầu cần thiết trong mối tương giao
cuộc sống. Chúng ta cũng thường nói về đạo làm người, lòng tôn kính ông bà tổ
tiên
qua việc ăn uống như “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”; hay nói về sự
biết ơnđền ơn như “uống nước nhớ nguồn”; phê phán những kẻ bội
bạc như “ăn cháo đá bát”. Dân gian còn có câu “nuôi ong tay áo, nuôi
khỉ dòm nhà” hay “qua cầu rút ván”, “vắt chanh bỏ vỏ” để nói về hạng người này.

Để thể
hiện
địa vị và tầm quan trọng của con người trong xã hội nên có câu “mâm cao cỗ
đầy” dùng để miêu tả bữa ăn của giới thượng lưu quyền thế. Việc cưới hỏi, lấy
vợ gã chồng phải làm tiệc ăn mừng là lẽ đương nhiên; nhưng đầy tháng, thôi nôi,
sinh nhật, thi đỗ, làm ăn phát đạt, thậm chí mua nhà tậu đất, thăng quan tiến
chức cũng tổ chức ăn mừng thiết đãi gia đình người thân, bạn bè và bà con lối
xóm. Ăn uống, tiệc tùng như thế lâu ngày đã trở thành văn hóa tín ngưỡng trong dân gian mà
“phép vua cũng thua lệ làng”. Nói cho cùng, ăn uống là một nhu cầu
cần thiết và cũng là phương tiện để bày tỏ tình thân hữu hay mối quan hệ giữa
con người với nhau trong xã hội, nhưng do lối văn hóa ăn uống của người Việt đã ăn thì
phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say, ăn với uống phải no say nên dần
hồi mới như thế.

Người
dân các miền thôn quê có ba nhu cầu chính trong việc ăn uống là đám giỗ, đám
cưới, đám ma. Ba đám này đã trở thành nhu cầu thiết thực trong cuộc sống. Người
thành thị thì ăn uống lu sà bù, đâu đâu cũng thấy quán nhậu làng nướng, đủ thứ
món ngon vật lạ được phơi bày. Ở quê nhà nào có người thân chết thì họ làm đám thiết
đãi bà con cô bác đến viếng cho đến ngày chôn hoặc thiêu rồi tiếp tục giải
quyết
những thứ còn tồn đọng. Người dân quê cho rằng vào những ngày này họ có
cơ hội trả nợ miệng. Bà con đến để phúng điếu, chia buồn cùng gia đình, sau đó
chén thù chén tạc bằng rượu hay bia, cùng thức sáng đêm đàn ca hát xướng, vui
vẻ
ăn nhậu để làm không khí tang thương, mất mát trở thành nhộn nhịp. Đám ma
thì có ăn, có uống. Đám giỗ còn long trọng hơn, ngày này bà con quyến thuộc nội
ngoại
hai bên tề tựu về rất đông. Người dân quê nặng về lễ giỗ ông bà cha mẹ,
với họ vào những ngày này rất quan trọng nên mới có câu “ai ơi ngày giỗ nhớ
về”; do vậy ngày giỗ thường được tổ chức long trọng và đôi khi còn lớn hơn cả đám
cưới.

Dân gian
có câu “ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo”,
nhưng quan trọng hơn hết chúng ta có thể đánh giá con người qua cách ăn, cách
uống. Hay nói cách khác, ăn uống phản ánh phạm trù sống, phương thức sống, cách
thức sống và phép tắc sống, nhìn vào cách ăn uống ta có thể biết người đó có
lòng từ bi hay không. Khi xưa lúc chưa đi tu bản thân chúng tôi là kẻ đam mê ăn
uống
, ngày nào cũng phải có rượu hay bia và gái gú. Con vịt chưa cắt cổ làm
tiết canh thì đã có mồi nhậu lai rai bằng cách thẻo miếng mỡ bầu diều bóp gỏi
làm chua khi con vịt còn sống. Loại ăn nhậu như chúng tôi ngày trước là hạng
người sống không có nhân cách đạo đức, thử hỏi làm sao biết thương yêu gia đình,
người thân nên mới bịp bợm, gian trá, xảo quyệt và ác độc; giờ ngồi ngẫm lại
trong khi đang viết sách mà cảm thấy nổi da gà. Phật pháp quá hay, quá tuyệt
vời
nên chúng tôi mới có được ngày hôm nay. Ý chí quyết tâm nhận thức rõ được
bản chất sai lầm nhờ sự chỉ dạy của thầy tổ, gần gũi thiện hữu tri thức và có
niềm tin nhân quả, tin chính mình là những yếu tố quan trọng giúp ta vươn lên
vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà làm mới lại chính mình.

Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết chọn lựa
những thức ănthức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Người xuất gia
nhưng lại thích ăn đồ giả mặn, loại thức ăn này rất có hại và lại mắc hơn những
loại rau cải, nếu tiêu thụ thường xuyên e rằng dễ bị nhiễm mặn và nhiễm độc. Ăn
chay
trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, như vậy sẽ ít bệnh.
Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta cũng nên nói, “chỉ xin ăn
những thức ăntác dụng nuôi dưỡngngăn ngừa tật bệnh”. Đó là ta biết
áp dụng chánh niệm trong khi ăn và khi nấu ăn. Đời sống tu hành thức ăn uống là
do đàn na tín thí đóng góp, ủng hộ. Thiền Viện Thường Chiếu có trên 300 thầy,
Phật tử gần xa đóng góp, ủng hộ mỗi lần ăn có trên 400 suất, vì phải nấu bằng
cái chảo lớn nên rất khó bảo đảm an toàn sức khoẻ, có khi rau cải quá nhiều ăn
không kịp nên tiêu thụ rất dễ bệnh. Thời đại ngày nay nấu nướng số lượng quá
lớn cũng khó đảm bảo an toàn thực phẩm, do đó mọi người phải tự ý thức trong ăn
uống
. Ăn kiêng, ăn những thứ cần thiết cho cơ thể là cách ăn tốt nhất.

Ngoài những thức ăn vật chất để
nuôi thân tồn tại, thức ăn tinh thần mới thực sự quan trọng đối với mọi người
trên thế gian này. Xúc thực, Tư niệm thựcThức thực được coi là ba món ăn
tinh thần của người xuất gia hay tại gia. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày với
cuộc đời bằng mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Nếu sống trong tu viện thì mỗi ngày đọc
kinh
, sám hối, ngồi Thiền, được gần gũi các bậc tu hành kiểu mẫu, trông thấy
đức hạnh của họ sẽ giúp chúng ta sống tốt theo. Thật vậy, thức ăn nuôi dưỡng
tinh thần chúng ta là Thiền ăn và Pháp hỷ thực. Mỗi ngày trước khi ăn đại chúng
luôn nhắc nhở nhau “Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn”. Vì vậy, bằng mọi
cách phải làm cho Thiền và Pháp trở thành món ăn tinh thần thực sự của chúng
ta
. Người tu mà không thích ăn cơm Thiền, uống nước Pháp thì không thể sống đời
tu hành viên mãn.

Ăn không
chánh niệmý thức cũng giống như hai vợ chồng và đứa con đi qua sa mạc mà
hết lương thực đem theo, không còn cách nào khác họ phải ăn thịt đứa con để đủ
sức
đi ra khỏi sa mạc, nếu không làm vậy thì cả ba đều chết. Khi ăn như thế hai
vợ chồng đó rất đau khổ nhưng không còn cách nào khác hơn. Khi ăn thiếu ý thức
ta sẽ tạo nỗi khổ, niềm đau cho các loài vật khác và chính bản thân mình sẽ
gánh lấy hậu quả khổ đau. Khi hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều đồ nướng, chiên
xào là đang hủy hoại từng
làn da, thớ thịt của mình. Ta đang ăn thịt của chính ta từ từ vì thuốc làm hại
phổi, rượu làm hại gan, đồ béo làm cao huyết áp, đột quỵ và ung thư. Thành ra
ta ăn như thế nào để đừng tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho các loài vật và ăn trên
sự khổ đau của kẻ khác, tức là ta ăn trong vội vã, vật vờsi mê. Vì vậy, mỗi
khi ăn thịt, ăn cá ta hãy ý thức có thể mình đang ăn thịt cha mẹ hay con cái vì
luân hồi sống chết qua lại vô số kiếp. Do đó chúng ta phải tập ăn chay và tập
không sát sinh hại vật để mở rộng tấm lòng từ bi, thương xót tất cả chúng
sinh

Loại
thức ăn thứ hai là Xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý,
khi chúng tiếp xúc với sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp ta phải thấy việc tiếp xúc
đó có đem chất độc vào người hay không, chất độc này sẽ làm tâm ta bị ô nhiễm;
như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc, tai nghe âm thanh đủ
mọi sắc thái. Chúng ta phải thực tập chánh kiến trong khi xem truyền hình, phải
biết lựa chọn kênh giải tríđạo đức, nhân cách sống hoặc y học đời sống.
Chúng ta không nên đưa những phim ảnh có độc tố như giết hại, sợ hãi, căm thù
bạo động vào đầu; nên xem những bộ phim mang lại cho mình sự hiểu biết, lòng từ
bi, sự san sẻ hay nâng đỡ, vượt lên chính mình, quyết tâm không làm những điều
lầm lỗi. Nhiều người tối ngày chỉ xem phim bạo lực, chiến tranh, tình cảm ủy mị mà không biết chọn lựa những
đề tài lợi ích. Chúng ta phải biết có những chương trình chứa đựng rất nhiều
độc tốtác hại lớn như bạo động, căm thùkích thích dục vọng. Những dịch vụ quảng cáo ngày nay cũng kích
thích
lòng tham lam và sự thèm khát dục vọng. Khi đọc một cuốn tiểu thuyết
chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố làm cho mình càng thêm dính mắc và
tham muốn. Đọc xong ta có thể mơ mộng ảo huyền một khung trời mới xa xôi, sẽ
chán nản, lo lắng, thèm khát làm mệt cả thân tâm.

Nếu mỗi
ngày ta không tỉnh giác thì những câu chuyện đời thường cũng có thể mang lại
cho mình nhiều độc tố. Mỗi ngày từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ ta
đều thấy-nghe và tiếp xúc với mọi việc, nếu khi tiếp xúc ta thấy thân khỏe, tâm an ổn, nhẹ nhàng thì phải
quyết gìn giữ chúng. Những thứ làm ta mệt, buồn phiền, lo lắnggiận dữ thì
phải tránh để không tiếp xúc nhiều. 5 giới là cội nguồn của an vui, hạnh phúc
khi chúng ta đã lãnh thọhành trì, giới là những bộ da vững chắc bao bọc lấy
thân thểtâm định tĩnh, sáng suốt của ta. Người không gìn giữ 5 giới sẽ đánh
mất lòng nhân ái vì đã đưa quá nhiều độc tố như giết hại, căm thù, bạo động, sợ
hãi
và làm tổn thương cho người và vật.

Loại
thức ăn thứ ba là Tư niệm thực. Đó là những ước mơ, hoài bão ta đang khao khát,
mong muốn được thực hiện trong tương lai. Ta muốn được làm thủ tướng hay bộ
trưởng, hay chí ít cũng làm giám đốc, đậu bằng tiến sĩ để đem những hiểu biết
ứng dụng vào đời, những mong muốn như thế thấm vào người ta giống như một loại
thức ăn. Mong muốn chính là một loại thực phẩm làm cho con người không ngừng
phấn đấu và rèn luyện. Ước muốn mạnh mẽ sẽ giúp ta có thêm năng lực để thực
hiện
những hoài bão, nhưng có những ước muốn sẽ làm ta bất hạnh, khổ đau suốt
cuộc đờitham lam, dính mắc như quyền cao chức trọng, nhiều tiền bạc của
cải
, tài năng xuất chúng hay sắc đẹp hơn người. Muốn được mạnh khỏe và an vui,
hạnh phúc để làm tròn trách nhiệm, bổn phận với gia đình, đóng góp cho xã hội;
hay ước muốn trở thành bậc giác ngộcứu độ tất cả chúng sinh là loại thức ăn
niệm thực chúng ta cần phải có.

Thiền viện thiếu món ăn tinh thần thì chúng đói, còn tìm
thức ăn không tốt sẽ bị nhiễm độc, bị nhiễm độc thực phẩm thì chết thân mạng,
bị nhiễm độc tinh thần thì chết Giới thân Huệ mạng, dù còn trong đạo nhưng
không dùng được việc có ích cho mọi người. Trên thực tế, các Thiền viện sinh
hoạt
tốt đẹp nhờ các vị lãnh đạo đều sống phạm hạnh thanh tịnh, do đó đại chúng
nương theo mới thăng hoa đạo đức tâm linh. Nếu hàng ngày ta thường tiếp xúc với
người phải trái, đúng sai, được mất, hơn thua, buồn thương, giận ghét, tiếp xúc
với trần cảnh do thấy-nghe trong phân biệt, dính mắc thì ý thức bắt đầu suy
nghĩ
theo đường danh lợi, bị sự cúng kính làm mờ mắt, dẫn đến hư hỏng một đời
tu.

Khi tu hành ta phải nên nhận rõ tầm quan trọng của Xúc thực,
không cho sáu căn tiếp xúc với sáu trần để không bị chúng làm ô nhiễm và không
lưu giữ điều xấu vào kho tâm thức. Chúng ta tu là biết chọn con đường tốt đẹp,
không đi con đường xấu xa. Con đường hiền thánh không mở ra thì con đường tội lỗi
sẽ làm ta mờ mắt mà quên cả lối đi của bậc hiền thánh Tăng và chư Phật. Dòng
nước chảy xuôi thường gây ra lũ lụt, ngập úng nên người ta phải ngăn nó bằng
cách mở đập cho nước chảy vào để chuyển thành dòng điện mang lại lợi ích cho
nhân loại. Dòng đời cũng thế, vì đa số không biết giữ năm giới của nhà Phật nên
ba đường dưới địa ngục, quỷ đói, súc sinh rộng mở và đang chờ đón những người
thiếu hiểu biết không tin sâu nhân quả.

Suy nghĩ của con người lúc nào cũng như dòng nước chảy khó
thể ngăn được nên ta chỉ tiếp xúc với những gì tốt đẹp, lợi ích và cao quý,
nhưng phải thích hợp với trình độnghiệp lực của mình. Thiền là sự sống của
con người, ta biết Thiền trong mọi hoàn cảnh thì an ổn, nhẹ nhàng, trí tuệ phát
sinh. Chính vì vậy, khi đọc Kinh, sám hối hay tham Thiền, chúng ta cảm nhận
niềm vui nên dần hồi buông xả được phiền não, tham-sân-si từ từ nhẹ bớt, không
còn nặng như ngày xưa. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày giữa ta và cuộc đời,
nếu chúng ta huân tập đầy đủ Phật pháp thì tất cả nhiễm ô thế gian sẽ được tiêu
hóa
dần hồi theo thời gian, từ kiến thức chuyển thành trí tuệ nhờ biết cách
buông xả.

Loại
thức ăn thứ tư gọi là Thức thực. Thân thể chúng ta được hình thành ngày hôm nay
đẹp hay xấu là do tác động của ý thức, trong đó gồm có Chánh báoY báo.
Chánh báothân thể này gồm có thân và tâm. Y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh
ta đang sống. Vì thói quen được huân tập lâu ngày từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ
ta có Chánh báoY báo. Chánh báoY báo đều là sự biểu hiện của tâm thức
được hình thành qua nền tảng nhân quả. Loại thức ăn thứ tư này rất quan trọng
vì nó là phần tinh thần. Tâm tư sáng suốt, hành động lương thiện sẽ giúp chúng
ta
tiếp nhận các món ăn trong sáng, từ bitrí tuệ. Nếu trong quá khứ tâm
thức
đã tiếp nhận thức ăn độc hại quá nhiều thì ngày nay tâm thức ta biểu hiện
ra
Chánh báo, Y báo không lành mạnh mà còn tối tăm, mờ mịt. Những gì ta suy tư
trong thấy-nghe-ngửi-nếm và tưởng tượng là những thứ được cất gữ trong kho chứa
tâm thức. Nếu kho tâm thức này chứa vô minh, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù
hằn
phiền muộn, khổ đau thì khi đủ duyên chúng sẽ phát sinh.

Chính
vậy
, chúng ta phải biết phân loại những thức ăn đưa vào kho tâm thức, phải nên
đưa từ-bi-hỷ-xả, lòng bao dung độ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, yêu thươnghiểu
biết
bằng tình người trong cuộc sống để nuôi dưỡng tâm thức mỗi ngày. Đức Phật
đã dùng phương tiện hình ảnh một người tử tù đang bị vua hành hình để nói về
Thức thực. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 cây kim đâm vào thân thể người tử tội,
đến chiều tối vua hỏi, “kẻ tử tù đó bây giờ ra sao?” Viên cai ngục trả lời,
“tâu bệ hạ, nó vẫn còn sống nhưng rên la thê thảm lắm!” Phật dùng ví dụ này để
nhắc nhở chúng ta đừng nên hành hạ tâm thức của mình y như thế, đừng đâm 300
mũi kim của độc tố tham lam, giận dữ, si mê, ganh ghét, tật đố, hận thù, bạo
động
sợ hãi vào kho tâm thức của chúng ta mỗi ngày.

Bốn thí
dụ
trên được ghi lại trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Hai vợ
chồng và đứa con cùng đi qua sa mạc nhưng nửa đường hết thức ăn, nếu không
cả ba đều chịu chết, cuối cùng hai người đành phải giết con để ăn mà vượt khỏi
sa mạc. Bốn ví dụ nghe rất khiếp đảm và ghê sợ, mục đích chính nhằm răn bảo
chúng ta phải sáng suốt gìn giữ thân-miệng-ý để đừng làm tổn hại cho mình và
người. Ăn uống là nhu cầu chính yếu hằng ngày, khi ăn ta phải tỉnh giác biết rõ
thức ăn nào không làm tổn hại thân tâm, trong khi ăn phải biết mình đang ăn,
thức ăn ngon hay dở đều biết rõ; mặn, lạt, chua, cay ta đều biết nhưng không để
tâm
bị lôi kéo về quá khứ hay mơ mộng đến tương lai hoặc quá lo lắng mà đánh
mất mình trong hiện tại.

Trước
khi ăn mọi người nên quán tưởng như sau: Cơm
ngày ba bữa thường nhớ công khó nhọc của kẻ nông phu. Thân mặc ba y hằng xét
nghĩ sự nhọc nhằn của người may dệt. Thuốc thang giường chõng bởi do sự nhín ăn
bớt mặc của tín thí khắp nơi. Học đạo tiến tu nhờ lòng từ dạy răn của thầy Tổ.
Nguyện cho thí chủ và tất cả chúng sinh phước huệ song tu, nhân tròn quả giác,
kẻ mất người còn đều trọn thành Phật đạo.
Trước khi ăn ta quán tưởng như
thế để tâm hằng nhớ ghi huân vào kho tâm thức, do đó khi đưa thức ăn vào miệng
ta nhìn thấy rõ thức ăn ấy với con mắt tỉnh giác. Ta ăn để mà sống, ăn vì thành
tựu
đạo nghiệp chứ không phải sống để mà ăn. Khi ăn ta nhìn miếng đậu hũ như
một dược liệu thuốc thang để chữa bệnh đói khát, nhờ vậy ta thấy rau cải, nước
tương là đại sứ của đất trời đến với ta để nuôi dưỡng thân này. Lòng ta tràn
đầy niềm biết ơnhoan hỷ, vui vẻ với những người đã gieo mầm sống để chúng
ta
dưỡng thântu tập. Khi nhai ta nhai trong ý thức, ta biết rằng mình đang
tiếp xúc với những chất liệu trong sáng, lành mạnh. Thường khi ăn nếu không
tỉnh giác ta sẽ nhai những buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua
lo lắng. Vô tình ta đang nhai quá khứ và tương lai mà đánh mất mình trong hiện
tại
. Ta nhai đều đặn thức ăn rau cải được trộn chung với cơm sẽ trở thành chất
loãng, nhờ vậy rất dễ tiêu và bổ dưỡng, không bị bón kiết. Như thế ta không cần
phải
ăn quá nhiều mà dinh dưỡng vẫn đầy đủ để nuôi dưỡng thân khỏe, tâm an.

THỞ ĐỂ NHÌN THẤY CHÍNH MÌNH

Dưỡng
khí là cái tối cần thiết cho cơ thể con người, nếu thở ra mà không thở vào coi
như mạng sống chấm dứt. Không ăn uống con người có thể sống được vài tuần, nếu
thiếu dưỡng khí chỉ trong 5 phút con người sẽ chết ngay. Dưỡng khí rất cần
thiết
cho nhu cầu cuộc sống con người nhưng chúng ta thường ít lưu ý đến
cũng không biết cách hít thở để có lượng dưỡng khí đầy đủ giúp cơ thể khoẻkhoắn, lành mạnh. Chính vì thế, trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên
để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức
khỏe
trong thân thể con người. Tập hít thở đúng đắn là hít thở dài và sâu, hít
thở ra đều bằng
mũi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của nhiều thứ bệnh bởi lượng
dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi và các cơ phận khác quá ít. Tình trạng
thiếu dưỡng khí lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu, hoạt động không bình
thường
và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những nguyên nhân gây ra
nhiều tật bệnh, trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Bản thân chúng tôi là một
bằng chứng thiết thực, khi mới vào Thiền Viện chúng tôi chỉ chú trọng tu tâm
chớ không quan trọng tu thân, do đó bị rất nhiều bệnh. Trong vài năm gần đây
tôi mới nhận ra sai lầm đó và áp dụng quán hơi thở trong đi-đứng-nằm-ngồi nên
sức khoẻ ngày càng được tốt hơn.

Điều
đầu tiên chúng ta cần làm nếu ở nhà lầu là mỗi ngày nên lên xuống cầu thang
nhiều lần để máu huyết lưu thông, nhịp tim đập mạnh và nhanh hơn bắt buộc chúng
ta
hít vào nhiều dưỡng khí và thải ra nhiều khí độc hại. Mỗi ngày ta nên đi bộ
bước nhanh hay lạy Phật-Bồ tát sám hối tối thiểu khoảng 30 phút hoặc hơn nữa
càng tốt. Quan trọng hơn hết ta phải tập cách hít-thở bằng mũi chậm, dài và
sâu, thực hiện nhẹ nhàng như nước chảy. Hít vô tới đâu ta biết tới đó và thở ra
cũng như vậy. Đầu óc hoàn toàn trống rỗng, không toan tính, suy nghĩ gì cả.
Càng tập lâu hơi thở càng dài, chúng ta càng hít vào nhiều dưỡng khí cho cơ thể
thì càng thải ra nhiều khí độc hại. Chính nhịp thở chậm, dài và sâu; đầu óc
trống rỗng, thanh thản sẽ làm các bộ phận trong cơ thể được mạnh khỏe vì nhận
được dưỡng khí bồi bổ dồi dào và thải hết khí độc cặn bã ra ngoài. Để thở như
trên chúng ta có thể ngồi trên ghế hay nằm trên giường hoặc bất cứ đâu, miễn là
trong tư thế hết sức tự nhiên, thả lỏng toàn thân thoải mái.

Tư thế
ngồi thở này là một trong các cách thức nghỉ ngơi và lấy lại sức lực rất công
hiệu
, có thể áp dụng tại khắp mọi nơi và trong mọi lúc. Chỉ cần vài phút là
chúng ta có thể phục hồi sinh lực cho tâm trí và cơ thể. Toàn thân trong tư thế
hoàn toàn thư giãn và đầu óc không nghĩ tưởng lăng xăng là hai yếu tố rất quan
trọng. Chỉ cần chúng ta nhiếp tâm vào hơi thở, thở vô biết mình thở vô, thở ra
biết mình thở ra. Ta cần chú ý phải thở chậm, dài và sâu trong tư thế hoàn toàn
nghỉ ngơi và an ổn, nhẹ nhàng. Khi đã tập quen và thường xuyên hơi thở của ta
sẽ dài và sâu, lượng dưỡng khí hít vào sẽ nhiều hơn và lượng khí độc được thải
ra cũng nhiều hơn.

Tư thế
nằm thở cũng y như vậy, đây là một dạng Thiền định hết sức đơn giản, dễ dàng mà
tất cả mọi người đều có thể thực hiện. Điều quan trọng nhất là lắng tâm vào hơi
thở
để tạo sự thoải mái cho chính mình, ngay tức thì đầu óc sẽ hoàn toàn thanh
thản
, nhẹ nhàng. Phương pháp hành Thiền bằng cách hít thở chậm, dài và sâu này
rất hữu hiệu trên toàn tâm trí và cơ thể con ngườicung cấp dồi dào dưỡng
khí và đồng thời thải hết thán khí cùng căng thẳng ra ngoài. Nó giúp chúng ta
phục hồi sức lực; thân khoẻ, tâm an và định tĩnh, sáng suốt; tái lập thế quân
bình
cho bộ máy hô hấp, tuần hoàn; trấn an tinh thần, giúp bình tĩnh và không
lo lắng, sợ hãi; có thể chữa bệnh tim, nóng nảy, âu lo, huyết áp cao, khó thở,
mất ngủ, nhức đầu, khó tiêu, mệt mỏi… Đặc biệt, nếu chúng ta thực hiện hít thở
dài
và sâu mỗi ngày đều đặn khoảng 15-60 phút mỗi sáng và mỗi tối thì dần dần
thân khỏe, tâm an
ổn
, nhẹ nhàng.

Hơi thở là nhịp cầu nối kết thân và tâm, là một quá
trình sống tự nhiên của cơ thể hoạt động liên tục cho đến khi mạng sống chấm
dứt
. Dù chúng ta không quan tâm đến hơi thở nhưng hơi thở vẫn luôn hiện hữu. Cuộc sống thế gian với bộn bề công
việc làm cho chúng ta ít để ý đến những việc bình thường và gần gũi nhất. Ta
chỉ thường nhận biết hơi thở khi nó bị trục trặc, giống như khi chúng ta lên
cơn suyễn hoặc lúc bị cơn đau tim đột ngột khiến cho mình khó thở.

Phương
pháp
quán niệm hơi thở giúp chúng ta dễ dàng nhiếp tâmđi vào Thiền định. Cách
thức quán niệm hơi thở rất đơn giản, chúng ta không cần cố gắng làm cho hơi thở
dài hơn hay điều khiển nó theo một phương thức nào. Ta chỉ đơn giảnngồi yên
theo dõi hơi thở ra vào một cách bình thường, thở vô ta biết mình thở vô, thở
ra
ta biết mình thở ra. Quán sát hơi thở không cần trình độ chuyên môn, không
cần học thức uyên bác, không cần sự thông minh mà chỉ cần nhận biết hơi thở ra
vào của chính mình.

Khi quán
sát
hơi thở chúng ta thấy thiếu sự hấp dẫn hoặc lôi cuốn như khi nghe nhạc hay
xem phim, do vậy ta có thể trở nên chán ngán mà không thích rồi bỏ cuộc nửa
chừng. Nhịp điệu của hơi thở bình thường rất đơn giản và không có sức thu
hút. Hơi thở rất yên tĩnh, nhẹ nhàng nên ít ai để ý tới. Với cách quán niệm hơi
thở
chúng ta không cần phải thích hay không thích, chỉ cần chú tâm để biết rõ
từng hơi thở ra vào, khi thở vô biết mình thở vô, khi thở ra biết mình thở ra.
Hơi thở nhẹ nhàng sẽ làm tâm ta yên lắng, đưa chúng ta về với sự tĩnh lặng và
cảm nhận được niềm vui an ổn, nhẹ nhàng.

Khi mới
bắt đầu quán hơi thở tâm thức của ta hay đi lang thang vào nhà người này, người
nọ. Một khi chúng ta nhận biết mình đang dính mắc vào buồn thương, giận ghét
làm mất tỉnh giác thì ta chỉ cần trở về nhìn lại hơi thở một cách nhẹ nhàng. Ta
phải kiên trì, bền chí, kiên nhẫndứt khoát, luôn luôn quyết tâm chỉ biết
mỗi hơi thở mà thôi. Mới đầu tâm thức của ta không quen bị kiềm chế nhưng
dần hồi nó sẽ quen, chú tâm một chỗ thì việc gì cũng xong. Tâm ta xưa nay quen chạy
rong như con trâu hoang hay ăn lúa mạ của người, nay ta chỉ cần xỏ mũi nó dẫn
đi, tuy nó nổi giận ghì kéo lại nhưng cuối cùng cũng sẽ ngoan ngoãn theo ta.

Chúng ta
quán sát hơi thở để tâm thức quay trở về với thực tại, cũng giống như người mẹ
dạy dỗ con mình. Một đứa trẻ hay chạy nhảy rong chơi nếu người mẹ nổi giận
sẽ đánh nó, đứa trẻ sẽ sợ hãi và có thể trở nên lì lợm. Một người mẹ khéo léo sẽ
không như vậy mà luôn xem chừng đứa trẻ và để ý đến nó, nếu nó đi lang thang bà
sẽ đưa nó trở về bên mình. Quan sát hơi thở tuy không có gì thú vị nhưng vì
chúng ta thiếu kiên nhẫn, muốn làm cái gì cũng được nhanh lẹ nên dễ chán nản. Nhiều
người rất sợ khi người khác biết các tật xấu của mình, nhất là những người
có quyền chức. Những ai có thiện chí đóng góp và tu hành sẽ thường thấy lỗi
của mình mà tìm cách chuyển hóa, điều phục chúng.
sĩ diện nên ta hay ém nhẹm các thói hư tật xấu và hay khoe khoang những cái
tốt. Chúng ta cần phải mạnh mẽ trong việc chống lại các thói quen xấu
như si mê, tham ái, sân giận và các thứ vọng tưởng khác.

Phương
cách
tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở
trong tâm. Chúng ta có thể kiềm chế không cho nó phát khởi khi ta có
đề mục Thiền quán làm chỗ nương trú trong tâm. Chỗ nương trú bên ngoài
của tâm là thân, gồm các yếu tố vật chất. Quay về với thực tại chính
mình cũng là chỗ nương trú bên trong của tâm, điều này giúp tâm không chạy
lang thang theo suy nghĩ này, vọng tưởng nọ. Chúng ta đừng để tâm chạy theo
những mối ưu tư của nó giống như những người bình thường chưa biết
quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú để giữ con khỉ tâm
thức
thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.

Bây giờ ta nói đến phương cách thực hành Thiền quán
hơi thở. Các Kinh sách dạy rằng, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết
thở ra, thở vô dài và sâu, thở ra dài và nhẹ nhàng. Đó là những bước
khởi đầu trong việc thực hành quán hơi thở. Khi thực tập một thời gian và bắt
đầu có sức định tĩnh ta không còn chú tâm đến độ dài-sâu-ngắn của hơi
thở
nữa mà chuyển sang bước kế tiếp. Chúng ta sẽ tập trung ý thức để nhìn
hơi thở ngay nơi lỗ mũi của mình và tiếp tục làm như thế cho đến khi tâm
lắng dịu, trong sáng, nhẹ nhàng. Khi tâm đã yên lắng chúng ta sẽ tập
trung vào sự tĩnh lặng của tâm, đơn giản là ta trụ nơi tâm thanh tịnh
nhưng quán sát nó với mỗi hơi thở vào ra như các bước sau:

_ Tâm: Tập trung ý thức chú tâm vào hơi thở, theo dõi hơi thở
ra hoặc trụ hơi thở tại mũi hay môi trên. Nếu cảm thấy
khó chịu
hay căng thẳng quá chúng ta có thể chuyển sự chú tâm vào vùng dưới rốn
nơi huyệt đan điền. Sự chú tâmtheo dõi trong lúc ngồi Thiền phải đầy đủ ba
yếu tố ý thức, chú tâmtỉnh giác.

_ Hơi thở: Chúng ta cứ để hơi thở vô ra tự nhiên,
không cố làm cho hơi thở dài thêm hay ngắn lại. Thở đều đặn, nhẹ nhàng một cách
tự nhiên và chỉ cần theo dõi hơi thở vô ra là đối tượng duy nhất trong suốt
thời gian hành Thiền. Thỉnh thoảng, nếu nghĩ đến chuyện khác chúng ta chỉ kiên
trì
, bền chí quay lại theo dõi hơi thở ra vô mà thôi. Khi bắt
đầu Thiền quán sát hơi thở, việc đầu tiên chúng ta cần nhớ là phải
ngồi giữ lưng cho thẳng và giữ mình trong tỉnh giác, thở vô ta biết mình đang
thở vô, thở ra ta biết mình đang thở ra. Hãy giữ hơi thở êm ái, nhẹ
nhàng; đừng gồng tay chân hay bất cứ cơ khớp nào; giữ thân ở tư thế
phù hợp với hơi thở. 

Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất là chỉ đơn thuần theo dõinhận
biết
hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mình
đang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người. Chúng ta phải biết rõ sự vận
hành
của từng hơi thở một cách cụ thể để giữ tâm tỉnh giác, không suy nghĩ lung
tung
bởi các tạp niệm buồn thương, giận ghét và cuối cùng đạt đến sự định đĩnh.
Khi tâm trở nên yên tịnh, trong sánghơi thở trở nên nhẹ nhàng ta sẽ cảm
giác
toàn thân được tịnh lạc.

Hành giả
duy trì trạng thái tỉnh giác về hơi thở một cách rõ ràng thì chỉ nhìn hơi thở
mà không cần sự chú tâm, cảm giác thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Lúc này, hơi thở
thường trở nên rất vi tế, khó nhận diện, có lúc nó dường như không hiện hữu,
nhưng đấy chỉ là cảm giác an tịnh của hơi thở.

Có 5
chướng ngại lớn trong việc thực tập Thiền định là:

_ Dục: còn gọi là các loại tham muốn,
luyến ái.

_ Sân: còn gọi là nóng giận, bực tức, khó
chịu.

_ Hôn trầm: còn gọi là sự lừ đừ, buồn
ngủ
; tâm mê mờ, dã dượi.

_ Trạo hối: còn gọi là tâm dao động, bất
an
.

_ Nghi: sự nghi ngờ không biết pháp mình
đang tu có thật sự an lạc không. 

Chúng ta
có thể ứng dụng các bước thực tập Thiền niệm hơi thở vào đời sống hàng ngày
trong mọi lúc, mọi nơi như đi-đứng-nằm-ngồi. Ta nên nhớ quán niệm hơi thở
nền tảng của thực tại nhiệm mầu giúp mỗi hành giả cảm nhận bình yên, hạnh phúc,
an ổn, nhẹ nhàng. Khi thực tập phép quán sát hơi thở, mỗi hành giả từng bước ý
thức
được mạng sống trong hơi thở mà biết cách buông xả phiền não tham-sân-si
và dần hồi thành tựu được bốn lĩnh vực quán niệm về thân-thọ-tâm-pháp.

_ Khi
hành giả thở vào biết mình thở vào hoặc thở ra biết mình thở ra. Hơi thở dài
hay ngắn mà ta có ý thức về hơi thở đang vận hành trong thân sẽ cảm thấy toàn
thân
an tịnh, biết rõ và nhận diện từng tâm niệm thương-ghét. Đó là lĩnh vực
quán niệm thứ nhất – quán thân trong tâm.

_ Khi
mỗi hành giả thở vào hoặc thở ra mà cảm nhận được niềm vui trong an ổn, nhẹ nhàng,
vui thích trong niềm vui đó thì mọi tâm tư chán ghét hay ưu phiền tự nhiên tan
biến. Những cảm thọ được chứng nghiệm trong hơi thởý thức ấy thuộc lĩnh vực
quán niệm thứ hai là cảm thọ.

_ Khi
hành giả thở vào hoặc thở ra làm cho tâm ý an tịnh sẽ tạo ra sự phỉ lạc trong
tâm cảm, nhận được tâm ý tự do, giải thoát, không bị giới hạn bởi một sự ràng
buộc
nào. Không quán niệm về hơi thở thì sẽ không phát triển được tuệ giác
sự hiểu biết chân chính. Đây là bước thứ ba – tập trung
vào việc hơi thở ảnh hưởng đến toàn thân như thế nào bằng cách quán
sát
tất cả những cảm nhận về hơi thở ở các bộ phận của thân, đặc
biệt
là những cảm nhận liên quan đến hơi thở vô ra.

_ Khi hành giả thở vào hoặc thở raquán
chiếu
về tính cách vô thường, hoặc tính cách không đáng tham cầu, vướng mắc của
vạn pháp về bản chất không sinh diệt và về sự buông bỏ thì hành giả khi ấy thấy
bóng dáng của sáu trần cảnh chỉ là ảo giác không thật. Thân tâm sẽ tự nhất
như
rồi thể nhập tính biết sáng suốt, nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà
thành tựu viên mãn pháp quán hơi thở.

THÂN VÀ TÂM CÁI NÀO QUAN TRỌNG

Thân và tâm, tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Đa số
chúng ta thường lo cho thể xác hay lo cho tinh thần? Chúng ta ai cũng lo cho thân
làm sao được sạch đẹp, sung mãn, đầy đủ; còn phần tinh thần ít ai quan tâm
tới. Nhưng thử hỏi, chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, đầy đủ thì nó
có bền bỉ, lâu dài được không? Rất tiếc, dù ta lo cho nó cách mấy thì thân này
cũng phải già-bệnh-chết. Ta lo cho thân đầy đủ để rồi ngày mai nó sẽ mất. Vậy lo cho thân
như thế là mình khôn hay dại? Ấy vậy mà ai cũng lo, lo giữ cái không thể bền
bỉ, lâu dàivô tâm, không để ý đến phần chủ động để mặc tình nó ra sao thì
ra. Chúng ta như vậy là sáng suốt hay si mê? Ta nào là lo nhà cửa, lo cơm ăn áo
mặc, lo tiền bạc của cải làm sao cho có thật nhiều; nhưng khi nhắm mắt ta chỉ
mang theo nghiệp tốt hoặc xấu, tất cả những thứ đó ta đều phải bỏ lại hết, mà
nghiệp tốt hay xấu là do tâm tạo tác mà ra. Khi muốn làm gì thì ý phải nghĩ trước
rồi thân này mới hành động. Tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt mọi việc trong
cuộc sống nên chúng ta phải làm sao lo cho nó được thánh thiện, tốt đẹp, cao quý mới phải. Thân này vốn dĩ tạm bợ,
thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt
hay nghiệp xấu. 

Lâu nay chúng
ta
cho thân người là thật, tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là thật. Do mê lầm, chấp
chặt
như vậy nên chúng ta cứ lo tìm cách gom góp tài sản, của cải cho mình và
con cháu mai sau. Đầu tiên ta chấp cảnh, sau mình chấp thân và tâm là thường,
là ngã. Vì chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa
giả hợp mà có, song bốn chất này thường xung khắc nhau; đất ngăn ngại nước,
nước xói mòn đất, nước làm tắt lửa, gió thổi thì đất rung rinh. Chúng xung khắc
mà phải hợp lại nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa như đau yếu, bệnh
hoạn
. Khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì tan rã, tứ đại phân ly; nên
mới nói “có thân là có khổ”. Ai cũng có thể biết vậy nhưng làm việc gì cũng lo
cho thân, ăn uống bồi bổ cũng vì thân. 

Thân chúng ta
những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng thuộc về đất. Những chất
lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt thuộc về nước. Những vật có tính động như
hơi thở vô, hơi thở ra thuộc về gió. Nhiệt độ trong thân như hơi ấm thuộc về lửa.
Khoa học hiện đại ngày nay phân tích thân người có hằng hà vô số tế bào, song
cũng từ bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này
là thật tôi, là của tôi, rồi cứ chấp chặt vào đó. Nếu ai đụng chạm đến “cái
tôi” này thì ta liền phản ứng chống trả lại hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun
bồi cho nó được đầy đủ, thỏa mãn.

Nhưng với tuệ
giác
của Phật thì Ngài thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hợp lại mà thành, nếu
thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã. Song, mỗi ngày chúng ta muốn
duy trì thân để được tồn tại phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí. Cứ thế ta
vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài để bồi bổ, thay thế cho đất-nước-gió-lửa
bên trong. Suốt cả cuộc đời chúng ta sống bằng sự vay mượn liên tục, khi hết
vay mượn thì mạng sống dừng. Hơi thở trả về với gió. Hơi ấm trả về với lửa. Máu,
nước miếng, nước mắt trả về với nước. Da, thịt, gân xương trả về với đất. Tất
cả đều rã tan, trở thành một cái xác thúi chẳng còn gì gọi là thân mạng nữa. Vậy
ai cũng cố tâm lo cho chúng mà quên hẳn phần tinh thần.

Trong Kinh Bách
Dụ có kể một câu chuyện như sau: Thuở xưa có một ngôi nhà cũ bỏ hoang, mọi
người
đồn có quỷ dữ trong ấy nên ai cũng kinh sợ,
không dám ghé vào đó ngủ. Bấy giờ có một chàng trai tự cho mình đủ bản lĩnh bèn
tuyên bố với mọi người: “Tôi không sợ gì cả, ma quỷ là cái quái gì, tối nay tôi
sẽ vào đó ngủ.” Quả thật, tối đến anh ta vào nhà ngủ. Đồng thời lúc ấy cũng có
một người tự cho mình can đảm hơn người nên cũng hiên ngang vào nhà đó ngủ.
Người đến sau tới nơi xô cửa vào, người đến trước tưởng quỷ về xô cửa bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho vào. Người
phía ngoài tưởng có quỷ bên trong nên
ráng sức xô cánh cửa bật ngã để vào chiến đấu với quỷ. Hai người gặp nhau trong đêm tối và đánh nhau dữ dội nhưng bất
phân thắng bại. Trời vừa sáng ra hai người thấy nhau rõ ràng mới vỡ lẽ con quỷ mà mình đánh suốt đêm qua là người chớ không phải quỷ. Phật nói bài Kinh này để dụ sự lầm mê, chấp trước của con người
là trời tối. Vì tối tăm mê mờ nên không thấy đúng lẽ thật, thân này giả có mà
chúng ta lầm tưởng là thật nên làm cái gì cũng lo cho thân hết. 

Trong Kinh A-hàm,
Phật dạy người chấp thân tứ đại là ta còn dễ phá trừ hơn những người chấp linh
hồn
là thật ta. Họ nghĩ cái hồn sáng này vẫn trước sau như một, không biến đổi.
Họ tin đời này mình giàu thì đời sau cũng giàu, mang thân người thì trở lại
thân người; đời nay ra sao, thế nào thì khi chết đời sau như thế đó. Chấp trong
thân này có linh hồn còn hoài là quan niệm thần ngã, thần ngã là chủ của thân
này nên không bao giờ thay đổi. Những người mê chấp như vậy rất có hại vì họ
cho rằng thần ngã là cố định, họ không chịu tu tâm sửa tánh mà mặc tình ăn
chơi
, tạo các nghiệp xấu ác, đến khi phước hết họa đến phải
chịu quả báo khổ đau không có ngày cùng.

Phật dạy tâm
người là cội nguồn của thiện-ác, thân người là rừng tội lỗi hay là rừng công
đức
. Khi tâm chúng ta khởi nghĩ một điều gì thì ta cho đó là chân lý, nếu có ai
không chấp nhận và chống đối lại ta sẽ tức giận, mắng chửi, la hét um sùm… Từ đó,
tất cả mọi mầm mống đấu tranh đều từ tâm mà ra, tâm bảo vệ, tâm chấp ngã và tâm
si mê quyết ăn thua đủ. Như vậy, tâm rõ ràng là cội nguồn của tội ác. Tuy
nhiên
, đến khi tâm có ý thức thấy được mầm đấu tranh sẽ dẫn đến sự chống đối và
tìm cách sát phạt nhau, thấy được sự tác hại của nó thì tâm sẽ quay lại chính
mình. Thân này khi muốn ăn một bữa ngon miệng thì phải mua tôm, cua, gà vịt về
cắt cổ nhổ lông, chiên xào luộc nướng để bồi bổ thân này. Có người vì nuôi thân
mà phải làm những nghề đồ tể như giết heo, bò, trâu, dê. Vì tham vọng cho bản
ngã
mà thân tạo vô số việc ác, nên nói thân là rừng tội lỗi.

Nhưng thân này
gây tội lỗi là do đâu? Do tâm điều khiển, tức tâm là ông chủ chỉ huy. Người
Phật tử thấy rõ tâm là chủ nhân ông của bao điều họa phúc thì mỗi khi tâm khởi nghĩ những điều bất thiện hại
mình, hại người ta liền dừng ngay. Không phát ra lời nói hay hành động thì làm
gì phát sinh tội lỗi. Chúng ta theo lời Phật dạy biết quán xét và thấy rõ tâm
là người điều khiển nên thân mới hành động. Tâm hiểu đúng, phát ra lời nói chân
chính
sẽ dẫn đến hành động thiện ích. Thông thường, chúng ta thấy người nghèo
đói
thì cho cơm gạo để họ được no lòng; thấy người lạnh rách ta cho áo chăn để
họ được lành ấm; thấy người đau bệnh ta cho thuốc men để họ được khỏe mạnh; đó
cứu khổ, cứu người. Nhưng nếu tâm tham lam, ích kỷ, keo kiết thì làm sao mở
lòng
giúp đỡ cho người được?

Đức Phật trước kia ở trong hoàn cảnh cung
vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh. Vật chất quá đầy đủ nhưng tại sao Ngài từ bỏ
tất cả để vượt thành xuất gia? Vì Ngài thấy rõ ngôi vua, quyền thế, của cải
những hạnh phúc tạm bợ. Có khi vì thế mà con người giết hại lẫn nhau nhưng cuối
cùng
ai cũng phải chết với hai bàn tay trắng. Con ngườimê lầm nên làm cái
gì cũng để hưởng thụ, bồi bổ thân này mà không biết tu tâm dưỡng tánh. Thành ra
đại đa số con người thế gian chỉ lo cho phần vật chất mà lãng quên phần tinh
thần
. Phật có đầy đủ tất cả nhưng tại sao Ngài không hưởng, ngay khi đã thành
tựu
đạo pháp ngài cũng chỉ tuỳ duyên khất thực xin ăn để gieo phước điền cho
nhân loại? Có được tinh thần sáng suốt, minh mẫn, định tĩnh nên Phật không thấy
ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Cái thân vật chất
này lúc nào cũng làm chúng ta lo lắng, tìm cách vun bồi, xây đắp, thỏa mãn nó;
nhưng nó lại do tứ đại hòa hợp giả có nên rồi cũng phải chịu già-bệnh-chết. Phật dạy chúng ta
phải luôn thấy rõ thân này giả hợp, thân chỉ là phương tiện còn tâm mới là cứu
cánh
để chuyển ba nghiệp thân-khẩu-ý cho thanh tịnhđược giải thoát luân
hồi-sinh tử. Thấy biết đúng như vậy là người giác, thấy ngược lại là người mê.
Từ trước chúng ta mê lầm không nghe, không thấy, không biết nên làm cái gì cũng
lo cho thân bất chấp có tội hay không có tội. Thân này tạo tác, làm việc là do
ai điều khiển? Do tâm điều khiền chứ còn ai? Tâm biết phục thiện, tin sâu nhân
quả
thì chỉ huy, điều hành thân này làm nhiều việc thiện ích giúp người, cứu
vật.

CON NGƯỜI THAM MUỐN DỤC VỌNG QUÁ LỪNG LẪY

Nhân quả
rất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng
cố
tăng trưởng mạnh mẽ. Chính tham muốn dục vọng quá đáng đã tạo cho con
người
dính mắc vào “cái ta” ích kỷ này. Nào tài sản sự nghiệp, tiền bạc của
cải
, khi có đầy đủ rồi lại tìm cách được điạ vị danh vọng, tiếng tăm để tô bồi
bản ngã của mình. Dĩ nhiên, khi có được hai điều kiện trên thì việc hưởng thụ
sắc đẹp, ăn sung mặc sướng và ngủ nghỉ thoải mái đã làm cho tất cả chúng sinh
thân tâm phải bị bức bách, khổ sở.

Con người
si mê lầm chấp, không thấy đúng lẽ thật nên luyến ái thân mạng; chấp thân tứ
đại
giả hợp cho là ta, là của ta, con ta, tài sản ta, gia đình ta, đất nước ta
và ta là trung tâm của vũ trụ nên từ đó ông trời ra đời để ban phước giáng họa. Chúng ta
vì thấy thân này là thật nên lúc nào cũng muốn nó được ăn ngon mặc đẹp, ra sức
sắm sửa nhà cao cửa rộng, tài sản tiện nghi, vật chất đầy đủ, xe cộ, tiền của,
tôi tớ phục dịch để chứng tỏ đẳng cấp giàu sang. Muốn có được đời sống vật chất
đầy đủ như thế chúng ta phải làm việc nhọc nhằn vất vả, phải tính toán công ăn
việc làm để tích lũy tiền bạc, của cải vật chất cho nhiều. Sự tham muốn đó
không phải chỉ riêng một ai mà tất cả chúng ta ai cũng muốn được lợi phần mình
nên tranh đua, giành giật để được phần hơn. Không ai chịu thua ai mà lúc nào
cũng muốn chiếm ưu thế về mình. Đã đi vào trường đời thì phải tranh đua, giành
giật nên có kẻ được người mất, kẻ thắng người thua. Người được thì vui trên sự
đau khổ của kẻ khác, còn người mất thì đau khổ vô cùng.

Lòng tham con
người
như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng.
Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới. Người
không được thì tìm cách trộm cướp, lường gạt của người khác. Kẻ bần cùng thì
oán trời trách đất, oán ghét xã hội, bạn bè, người thân. Có nhiều gia đình cha
mẹ
vừa nằm xuống thì trong nhà anh em ruột thịt đã tranh nhau đòi chia gia tài,
so bì với nhau từ lằn ranh bờ đất, chửi bới thưa kiện nhau ra tòa để giành của
về mình. Anh em ruột thịt còn như thế thì huống chi là người dưng nước lã, làm
sao có thể thương yêu giúp đỡ nhau bằng tình người trong cuộc sống. Người có
tiền của còn tham như vậy thì nói gì đến người nghèo khổ, thiếu trước hụt sau.
Trong cảnh túng quẫn có khi họ phải ăn trộm, cướp giật, lường gạt của người
khác. Người Phật tử chân chính phải biết tạo dựng cho mình một đời sống trong
sạch
, miễn sao có miếng ăn thức uống vừa đủ mà trau dồi đạo đức tâm linh; biết
nhường cơm xẻ áo, nhín ăn bớt mặc để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh trên tinh
thần
của ít lòng nhiều.

Người thế
gian
trước tiên muốn thỏa mãn tiền bạc của cải rồi mới đến sự quyến rũ của sắc
đẹp. Sắc đẹp cũng là vị ngọt mà cũng là vị đắng. Nó là một thứ men say tình ái
khiến con người phải đam mê, thích thú, đắm say. Sự mến luyến khoái lạc cảm
giác
rồi mơn trớn, vuốt ve đã làm đa số anh hùng đều chết dưới lỗ chân trâu.
Tai hại của lòng đam mê sắc dục làm biết bao người phải hao tài tốn của, tán
gia bại sản. Hạnh phúc gia đình đổ vỡ cũng vì sự tham muốn quá đáng mà vợ chồng
gây gỗ, đánh đập nhau vì ghen tuông, hờn mát. Tình chồng nghĩa vợ bấy lâu bị
mất mát, đổ vỡ có thể làm con người ta đau khổ đến tột cùng. Lòng khát ái của con
người
không bao giờ biết đủ vì họ không bao giờ thấy thỏa mãn trong cuộc tìm
kiếm
, săn đuổi tình yêu; cũng giống như người khát nước mà uống nước muối nên
càng uống lại càng khát. Họ cứ đi tìm những thụ hưởng cảm giác mới lạ có tính
cách
dị hợm, thậm chí có một số nước họ chơi trò đổi vợ qua lại để tạo thú vui
thấp hèn, trụy lạc.

Vì thấy rõ
tai hại của lòng đam mê sắc dục nên Phật chế giới “không tà dâm” để người Phật
tử
tại gia biết sống chung thủy một vợ một chồng, thương yêu nhau đến trọn đời, không
được ngoại tình với kẻ khác để bảo vệ hạnh phúc cho nhau. Khi có được đầy đủ
tiền bạc, của cải và sắc đẹp thì con người ta lại muốn củng cố quyền lực, danh
vọng
địa vị. Danh vọng là một trong những nấc thang cuối cùng của đời người
để thỏa mãn bản ngã được trở thành nhân vật quan trọng ăn trên ngồi trước, có
kẻ hầu người hạ. Đó cũng là miếng mồi ngon béo bở mà người đời ai cũng thèm
muốn
được tận hưởng đầy đủ và vì sợ mất nên họ phải dùng tất cả thủ đoạn để bảo
vệ
nó. Cuối cùng thì đó cũng chỉ là mộng ảo phù hoa, cũng như những bong
bóng nước
khi rơi xuống chúng sẽ tự vỡ. Không ai có thể giữ mãi được danh vọng, địa vị hay
quyền uy, thế lực. Người muốn ít biết đủ sẽ tùy duyên làm việc, không tranh đua danh lợi nên không
sợ mất mát; không sợ ai tranh chấp, mưu hại nên cuộc sống lúc nào cũng được
bình yên, hạnh phúc.

Ngay đến các thức ăn uống ngon miệng
cũng chỉ có giá trị khi còn ở đầu lưỡi, chúng ta nuốt qua khỏi cổ rồi thì mọi
thứ như nhau. Xét lại mới thấy việc ăn ngon chỉ có cảm giác nhất thời, vậy mà
chúng ta phải hao tiền tốn của, vất vả cực
khổ
để có được món ngon vật lạ, sơn hào hải vị. Sự đam mê ngủ nghĩ cũng làm cho ta phải bận tâm không
kém. Nhiều người suốt đời chỉ thích nhàn hạ, thảnh thơi, ăn không ngồi rồi,
không muốn làm gì động đến chân tay. Họ sống chỉ biết thụ hưởng, vui chơi, bồi
bổ
tấm thân cho thỏa mãn, sung sướng nên cứ hết ăn rồi ngủ, hết ngủ rồi ăn, chẳng
khác gì loài heo. Hạng người như thế chỉ biết lo cho thân này còn gia đình,
người thân hay ngoài xã hội ai khổ đau mặc kệ.

Ngày
xưa
khi thế giới loài người mới hình thành, dòng họ nhà ma vì ghen ghét loài
người
nên cùng bàn bạc sẽ đem giấu đi thứ quý giá nhất của con ngườihạnh
phúc
. Chúng tranh luận, bàn bạc với nhau nên đem giấu hạnh phúc của con người
đâu. Trên núi cao, trong rừng thẳm, dưới biển sâu hay trong lòng đất? Cuối cùng,
chúng thấy những nơi đó loài người có thể phát giác ra nên đã quyết định sau khi cân nhắc kỹ là đem
hạnh phúc giấu ngay nơi thân con người. Cả lũ quỷ đều vui vẻ đắc thắng vì nghĩ
đó là nơi con người khó có thể tìm ra mà có hạnh phúc thật sự.

Con
người
chúng ta thường cho rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp và có ý nghĩa
hơn khi được ăn học đàng hoàng, lập gia đình rồi sinh con đẻ cái cùng sống hạnh
phúc
bên nhau. Đến khi thành lập gia thất và bắt đầu có con ta lại vỡ mộng vì
con còn quá nhỏ nên tự an ủi mọi việc sẽ tốt đẹp hơn khi các con khôn lớn. Và đến
lúc ấy ta lại thất vọng hơn nữa vì con đến tuổi đi học nên phải chăm sóc, lo
lắng
cho chúng vất vả hơn. Rồi ta lại tự an ủi mai này các con trưởng thành
gia đình riêng thì chắc chắn ta sẽ được hạnh phúc. Cho đến khi ấy
thì mình đã già và có khi chẳng còn sống được bao lâu để thụ hưởng hạnh phúc. Suốt
một chặng đường từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cho đến khi tốt nghiệp,
cưới vợ lấy chồng, có con và nghỉ hưu; tất cả đều thoáng qua nhanh và từng giai
đoạn là từng nỗi lo toan vất vả, bộn bề. Hạnh phúc thiết thực, thật ra là ở ngay trong giờ phút hiện tại. Cuộc sống
vốn dĩ luôn bị vây quanh bởi các thứ lo toan quay cuồng cứ nối tiếp nhau không
một phút giây ngừng nghỉ. Hiện tại nếu chúng ta biết trân quý thời gian thì đó là
thời điểm hạnh phúc nhất dù cuộc sống lúc nào cũng khó khăn và nhiều phiền muộn,
khổ đau.


muốn tìm kiếm hạnh phúc nên chúng ta cứ phải làm lại từ đầu. Cứ như thế công
việc này giải quyết chưa xong thì những việc kia lại tiếp nối, đôi khi ngồi mà
tiếc nuối chuyện đã qua và công việc khác lại bắt đầu. Rốt cuộc, chúng ta cứ
nằm trong vòng lẩn quẩn mà quên đi những giây phút sống ngay trong hiện tại,
đây mới chính là điều ta đang tìm kiếm bấy lâu nay. Hạnh phúc chính là ta đang
làm việc gì thì biết việc đó, ta phải sống với những gì trong hiện tạihiện
tại
chính là đây. Chúng ta hãy trân quý và tận hưởng những gì mình đang có ngay
trong giờ phút hiện tại và đừng nên chờ đợi nữa. Ta đừng chờ cho tới khi tốt nghiệp
ra trường, chờ khi có việc làm tương xứng, chờ được tăng lương, chờ có công việc
mới, chờ một mẫu người lý tưởng để gá nghĩa vợ chồng, chờ đến ngày thứ bảy hay sáng
chủ nhật để sum họp gia đình, chờ lãnh
lương cuối tháng và chờ cho xuân-hạ-thu-đông bốn mùa thay đổi, chờ mãi chờ mãi
cho đến ngày ta nhắm mắt lìa đời thì hạnh phúc thật sự có khi cũng chưa tìm
đến. Chúng ta muốn được hạnh phúc nhưng ta phải hiểu hạnh phúc thật sự là gì?
Hạnh phúc là sự biết cảm nhận giá trị sống trong mỗi hoàn cảnh ngay tại đây và
bây giờ chứ hạnh phúc không phải là điểm đến mà ta đang mong đợi. Chúng ta hãy
thường xuyên suy nghĩ về điều này, cuộc sống lúc nào cũng ngắn ngủi và thoáng
qua nhanh, thở ra mà không thở vào thì ta còn gì nữa? Tại sao ta không biết
trân quý những gì đang có ngay giờ phút hiện tại?


thật đúng như thế! Sức mạnh của loài người có thể chinh phục được vũ trụ nhưng lại
không thể dễ dàng chiến thắng được thói hư tật xấu và vượt qua chính bản thân
mình. Đúng là hạnh phúc nằm ngay trong bản thân con người nhưng con người lại
không chịu thừa nhận, bởi hạnh phúc không có hình dáng, tướng mạo, không xúc
chạm được nên khó thấy, khó biết. Cũng như sức mạnh tâm linh của mỗi người
chính là nội tâm thanh tịnh, sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng
không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Chúng ta hãy kiểm
lại ba điều. Một là mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ,
không có gì quan trọng. Ba là tâm là ông chủ nhân của bao điều họa phúc. Ta thường nhớ và thấy như vậy thì sẽ dễ dàng tập trung vào việc
tu học để chuyển hoá, gạn lọc tâm buồn thương, giận ghét thành tâm thanh tịnh,
sáng suốt. Làm chủ được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc
sống không thể hấp dẫn và lôi kéo ta được nữa.

Người Phật
tử
chân chính tu học cho đến thấy được lẽ thật thì đời sống mới được bình yên,
hạnh phúc. Lúc nào chúng ta cũng nhớ rằng từ si mê, tham đắm thân này nên sinh
ra tham lam; từ tham không được rồi sinh ra nóng giận; nóng giận lâu ngày trở
thành
nội kết mà dẫn đến thù hằn, ghét bỏ. Ba thứ này là phiền não kiên cố
chúng ta cần phải tìm cách chuyển hóa chứ không thể nuôi dưỡng, chất
chứa
chúng lâu dài. Chúng ta thử nhìn lại trên thế gian này từ người giàu cho
tới kẻ nghèo có ai sống mà không có đau khổ hoặc vui vẻ hết. Mỗi người đều có
nỗi khổ riêng; có người khổ vì thiếu thốn đói khát; có người khổ vì không cha
không mẹ, không gia đình người thân; có người tuy giàu nhưng cũng khổ vì gia
đình
không hạnh phúc. Chúng ta phải dám nhìn vào sự thật và luôn nhớ mạng sống này
chỉ trong hơi thở thì sẽ bớt tham lam, ích kỷ. Khi thấy thân này nhơ nhớp,
không trong sạch thì bớt kiêu căng, ngã mạn; thấy rõ bản chất nó là vô thường
nên dần hồi phá được chấp ngã về thân. Chúng ta muốn chuyển hoá, gạn lọc làm
cho tinh thần được trong sáng, tốt đẹp thì phải biết xem xét lại chính mình từ
những tâm niệm đang dấy khởi thầm kín. Hầu như ai cũng biết tham lam, nóng
giận, si mê là xấu ác nhưng bỏ không được vì thói quen chất chứa nhiều đời. Con
người
thật là mâu thuẫn! Lúc nào cũng mong cho mình được sáng suốt, thanh tịnh
mà những thói xấu không chịu bỏ. Người tham lam có 1 triệu thì muốn 2 triệu, có
2 triệu lại muốn 3 triệu, có 3 triệu thì lại muốn nhiều hơn mà không bao giờ
biết dừng lại.

Nói đến việc
tu để tâm được thanh tịnh, sáng suốt thì nhiều người bảo ăn chay, lạy Phật
nhiều là tu. Ăn chay chỉ là bước đầu thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật,
lạy Phật cũng thuộc về phần thể xác nhưng biết cách lạy sẽ thực sự có nhiều lợi
ích
. Lạy Phật là cách thức tu trong hoạt động vì thân này luôn phải làm việc,
ăn uống, tắm rửa, đi tiểu đi đại nên cách thức tu lạy Phậtgiá trị thiết
thực
về hai mặt thể xác lẫn tinh thần. Toàn thân năm vóc lễ lạy, đứng lên quỳ
xuống, thân tâm cung kính nhất như làm cho thân khoẻ, tâm an. Tu bằng hình thức
tạo phước, tạo duyên, từ từ buông xả được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Hoặc ta tu
bằng cách lọc bỏ các vọng tưởng cho tâm được trong sáng, thanh tịnh. Thân và
tâm không tách rời nhau và luôn cùng nhau hoạt động, nếu tâm biết tỉnh giác thì
thân miệng làm các việc tốt mà cảm nhận được niềm vui. Ta biết đóng góp vật
chất
thì có phước nhưng tâm còn phiền não, vọng động thì vẫn còn luân hồi sanh
tử
.

Vì lòng tham
muốn
của con người không bao giờ biết thỏa mãn nên tâm cứ luôn rong rủi tìm
cầu, chạy theo ngũ dục không bao giờ biết chán, biết đủ. Người ta nói “ăn để mà
sống chứ không phải sống để mà ăn”, nhưng xét lại đời sống con người từ khi
sinh ra thì tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội đều do chạy theo ăn-uống-mặc-ở và
các tiện nghi sinh sống khác… Người nghèo thì tìm cách tranh thủ làm lụng để có
cái ăn cái mặc. Người đã dư ăn dư mặc thì muốn kiếm thêm để dành dụm cho con
cháu mai sau. Khi đã có đầy đủ vật chất thì con người lại muốn tranh thủ để có
danh vọng, địa vị, kẻ hầu người hạ, ăn trên ngồi trước, mọi người kính nể. Rốt
cuộc
, cả một đời lao đao, lận đận chạy theo ngũ dục rồi cuối cùng đi đến già-bệnh-chết
mang theo chỉ hai bàn tay trắng. Cha mẹ, vợ con, nhà cửa cũng không ai dám
phát tâm đi theo. Quả thật, lòng tham con người không bao giờ biết chán, biết
dừng và muốn ít biết đủ.

Từ si mê mới
cho rằng đời sống dài cả trăm năm nên lo tạo dựng sự nghiệp, gia đình, công
danh
, tài sản, của cải để con cháu đời sau hưởng đến khi tắt thở cũng chưa mòn.
Vì vậy mà cả một đời mấy chục năm ròng ta cứ lao vào hình thức vật chất
không nghĩ đến tâm tư của mình trong sáng hay tối tăm; không màng đến việc trau
dồi nhân cách, đạo đức mà chỉ đuổi theo những cái tạm bợ, phù phiếm bên ngoài. Đời
này tạo lập, xây dựng mà nếu lỡ phải chết giữa chừng thì khi ra đi tâm tiếc
nuối dấy khởi, ta không cam tâm nên mới phải tái sinh, có khi phải đọa làm chó
giữ nhà để trông của. Thế cho nên, Phật nói si mê là gốc của luân hồi sống chết
không có ngày cùng, chúng sanh phải thăng lên lộn xuống mãi trong ba cõi sáu
đường
gốc cũng từ si mê mà ra. Ta đam mê sự sống, danh vọng, sắc đẹp, quyền
lực
, tiền bạc, của cải. Ta thường sống với những ảo tưởng, nhớ nghĩ về quá khứ
hoặc mơ mộng đến tương lai. Chính đó là gốc rễ của si mê. Cho nên, chúng ta
phải thường xuyên quán chiếu mới có thể biết rõ mạng sống vô thường, thân này
không thật có. Biết thân này không có giá trị chân thật thì chúng ta không còn
tham ái, luyến mến nó nữa. Được như vậy ta sẽ biết cách làm chủ thân tâm.

Tuy nhiên,
chúng sinh can cường với bản tánh tham lam, mới tu vài ba năm hoặc hai ba chục
năm mà cứ đòi thành Phật; do đó, nghe ai nói tu ba tháng đến sáu tháng thành
Phật
liền thì ham quá mới bán hết nhà cửa mà dâng cúng cho người đó. Tu một
thời gian không có kết quả mới té ngửa ra tại mình si mê, đần độn nên đã “giao
trứng cho ác” mà không biết. Lời Phật dạy từ trước đến nay chính yếu tu là biết
cách gạn lọc nội tâm; giống như một lu nước đục muốn nước được trong phải có
thời gian gạn lọc, tuy thấy nước trong nhưng cặn bã vẫn còn dưới đáy lu, gặp
duyên thì nước sẽ đục trở lại. Phiền não tham-sân-si là cặn cáu, tuy có định
tĩnh đôi chút nhưng vẫn còn mờ tối. Muốn nước thật sự được trong ta phải đổ
nước trong sang lu khác, khi cặn bả hết thì có quậy nước vẫn trong. Tâm ta
trong sáng thì mọi thứ phiền não, khổ đau cũng tan hòa vào
không
.

Phật dạy
phàm cái gì có hình tướng đều do duyên hợp giả có, vậy mà chúng ta chỉ thích
sống với cái giả mà bỏ quên cái thật chính là tâm thường biết rõ ràng nương nơi
mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Cả ngày chúng ta chỉ biết lo lắng, đem hết sức lực để
gìn giữ cái thân sẽ già-bệnh-chết. Phần tâm thức thuộc về tinh thần ta cũng chỉ
giữ những buồn thương, giận ghét, hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất và cho
đó là tâm mình; nên mới nói “tâm tôi suy nghĩ như thế này, tâm tôi muốn làm như
thế kia”. Đủ thứ tâm thương ghét, buồn vui lẫn lộn mà ta cứ chấp chúng là tâm
mình dù chúng chợt có chợt không, thay đổi liên tục. Chúng sinh do gây nghiệp
thiện ác mà đi trong sanh tử luân hồi không có ngày thôi dứt. Khi ý nghĩ điều
không tốt thì miệng nói xấu, thân làm bậy nên bị đọa vào ba
đường ác
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu ý nghĩ chân chính, miệng nói lời
chân thật từ ái, thân làm điều lợi ích sẽ được đi trong ba đường lành, hưởng
phước báu cõi trời, người, a-tu-la.

Như vậy,
nguyên nhân dẫn chúng ta đi trong luân hồi sinh tửý thức, tức những ý nghĩ
thiện-ác, tốt-xấu. Chính tâm là chủ tạo nghiệp, muốn thoát khỏi sanh tử khổ đau
ta phải xa lìa hai ý nghĩ tốt-xấu và thiện-ác. Chúng ta có hai thứ tâm, tâm
sanh diệt tùy duyên chạy theo tình cảm của thế gian và tâm thường biết rõ ràng
hằng sáng suốt, lắng trong. Khi ta buồn, lúc ta thương, rồi lại giận, lát lại vui.
Tâm luôn thay đổi theo hoàn cảnh là tâm sanh diệt tùy duyên. Duyên thuận thì
tâm vui vẻ, thích thú, muốn bám giữ mãi. Duyên không vừa ý thì bực tức, phiền
muộn
. Tâm như vậy ta gọi là sáng nắng chiều mưa, thay đổi liên tục, mới khóc đó
rồi cười nên nó không phải là tâm chân thật. Chúng ta nên nhớ, bước đầu tu là
dẹp bớt những tâm niệm xấu-ác mà giữ những tâm niệm hiền lành, tốt đẹp. Bước
thứ hai khi tâm không còn suy nghĩ việc xấu-ác nữa mà hay làm các việc thiện
lành, tốt đẹp thì đến đây mỗi hành giả phải buông luôn tất cả niệm thiện dù đó
niệm Phật, niệm Bồ tát để thể nhập tính biết sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

Chúng ta
hiện nay có ai không thấy, không nghe, không biết không? Tại sao ta không thấy
chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe? Tại sao ta không chịu thừa nhận để mãi trôi lăn
trong luân hồi sinh tử hoài? Người biết tu thì tìm cách sửa đổi sai lầm, luôn
sống trong tỉnh giác và hay nhắc nhở mọi người cùng ý thức tin sâu nhân quả,
tin chính mình và cố gắng chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành
lượng
trí tuệ, từ bi. Tuy chúng ta học đạo nên biết thân này hư dối, giả tạm
nhưng nếu biết lợi dụng nó để tu hành thì có ngày sẽ vượt khỏi sinh tử khổ đau.
Người tu có hai trường hợp. Hạng người thứ nhất là nhớ biết cuộc đời vô thường
nên tâm buồn rầu, chán nản, không muốn làm gì. Hạng người như vậy là đã vô tình
phỉ báng lời Phật dạy. Hạng người thứ hai cũng biết thân tâm và hoàn cảnh đều
vô thường nhưng vẫn vui vẻ, cố gắng tu tập chuyển hoá để vươn lên vượt qua biển
khổ sông mê.

Tóm lại, chúng ta muốn sống được với con
người
tâm linh của chính mình thì phải biết buông xả bớt, việc gì đáng lo thì
mình lo; như sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ, sống có trách nhiệm với gia
đình
; vợ chồng con cái sống thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau, quan tâm lo lắng
cho nhau; nuôi dạy con cái biết tin sâu nhân quả, tin tâm mình là chủ nhân ông
của bao điều hoạ phúc. Ngoài những trách nhiệm và bổn phận trên thì những việc
không quan trọng khác ta nên buông xả dần. Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay
lại chính mình, từng bước nhận ra và sống được với tâm hằng biết nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

TÂM LÀ CHỦ NHÂN CỦA BAO ĐIỀU HỌA PHÚC

Tâm là gốc của thân, tâm có yên
thì gốc mới vững vàng. Thân thể này sở dĩ bị bệnh hoạn là do tâm bị vô minh che
lấp
nên tâm hồn u tối, mê mờ. Muốn thân này khỏe mạnh, ít bệnh hoạn chúng ta
chỉ cần nỗ lực làm cho tâm lặng lẽ, sáng trong. Tâm tham lam ích kỷ, giận hờn
trách móc, ganh ghét tật đố, cuồng si điên dạilo lắng sợ hãi tất nhiên làm
cho thân thêm bệnh hoạn vì tâm đã bị vẩn đục. Chính vì vậy mà ngài Thần Tú nói:

Thân
cây Bồ Đề

Tâm
như đài gương sáng

Luôn
luôn siêng lau chùi

Chớ
để dính bụi bặm.

Ngài Thần Tú ví thân này như cây
Bồ đề
cũng đúng, nếu không có thân làm sao mình có cơ hội làm những điều thiện
ích. Chính đức Phật cũng nói sở dĩ ta được tu hành viên mãn là nhờ có thân này.
Nhưng thân này từ đâu có? Nhờ mẹ sinh, cha nuôi dưỡng. Người không tu sẽ chấp
vào thân mà làm các việc xấu ác như những người chấp thần ngã, chấp có cái ngã
lâu dài; đời này như thế, đời sau cũng vậy nên mặc tình gây tạo tội lỗi; đến
khi phước hết họa đến phải chịu khổ sở vô cùng. Tuy thân này rất quý
nếu biết sử dụng đúng chỗ sẽ được lợi lạc lâu dài, nhưng không có tâm thân này
coi như phế bỏ. Do đó, ngài Thần Tú nói “tâm như đài gương sáng”. Thân và tâm
không
thể tách rời nhau, thân làm việc tốt hay xấu là do tâm điều khiển, chỉ
đạo
.

Mặc dù tâm như đài gương sáng,
trong sạch, tinh khiết, thuần nhất nhưng nếu ta cứ để cho lòng tham lam, ích
kỷ
, hờn giận, si mê, ghen ghét, hận thù chen vào thì sẽ dẫn đến tranh đấu,
giành giựt, tìm cách sát phạt, triệt buộc lẫn nhau để vơ vét về cho riêng mình
mà làm tổn hại cho người và vật. Tâm si mê, mù quáng do thấy biết sai lầm nên
đưa thân đi tới những hành động nông nổi, thấp hèn mà tạo nghiệp tày trời làm
khổ đau nhân loại. Tâm nóng giận, hờn mát dẫn đến ăn không tiêu, khó ngủ, lâu
ngày phát sinh bệnh suy nhược thần kinh. Bởi vậy, tâm là chủ nhân của bao điều
họa phúc, thiện ác, nên hư, thành bại trong cuộc đời.

Chính vì thế, muốn thân đứng vững
mà không làm các việc xấu ác để sống lâu dài thì phải an tâm. Tâm an thì họa
trở thành phúc, ngu trở thành trí, khổ đau phiền muộn trở thành an lạc hạnh
phúc. Tâm không an thì họa khổ đau sẽ làm cho thân dễ bị nghiêng ngã. Cho nên
từ xưa đến nay các bậc hiền thánh đều tu tâm trước rồi mới lập thân, nhờ đó mà
thân đứng vững vàng để đi vào đời làm lợi ích cho tha nhân mà không bị dòng đời
cuốn trôi. Ngài Thần Tú cũng vì thế mới chỉ dạy phải luôn luôn dọn dẹp phiền
não
tham-sân-si, muốn vậy ta phải siêng năng lau chùi bụi bặm bám dính đầy nơi
thân.

Lời dạy của ngài Thần Tú phù hợp
với số đông nên dễ hành trìchúng sinh nghiệp tập sâu dày. Bản chất của tâm
được ví như đài gương sáng nhưng vì bị bụi phiền não dính vào, ta chỉ việc lau
chụi bụi bám dính trên mặt gương, khi bụi hết gương sẽ trong sáng trở lại. Bài
kệ
của ngài Thần Tú khi được viết trên vách khi được Ngũ tổ đọc xong liền nói
chỉ để lại một bài kệ này cho mọi người đọc tụng, thọ trì y như bài kệ này mà
tu hành khỏi bị đọa vào ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Những
ai y bài kệ này mà tu hành thì lợi ích rất lớn. Tất cả mọi người trong chùa khi
tụng đọc bài kệ thảy đều khen hay. Rõ ràng, nếu nhìn ở chiều có sự quán chiếu
thực thể hai mặt, kẻ si mê chấp thân là thật ta, rồi đến của ta. Tất cả đều vì “cái
ta” thật này mà làm những việc xấu ác. Nhất là những ông vua trong thời kỳ
phong kiến tham lam, chấp trước, tự cho mình là Thiên tử tức con trời nắm quyền
hành sinh sát trong tay nên muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức
cho ai thì phong. Ai đụng chạm đến gia đình, dòng họ của vua đều bị giết chết
đến 7 đời. Ngược lại với kẻ si mê là những người trí tuệ, tuy biết thân này giả
có, không thực thể cố định nhưng không vì thế mà họ bi quan, chán nản. Họ biết
lợi dụng thân này để tu tập chuyển hóa, nhờ vậy biết kết hợp nhuần
nhuyễn tu thân-miệng-ý, do đó đạt được lợi ích thật sự. Kẻ mê thì bám víu vào
thân để gây tạo những điều tội lỗi, người trí tỉnh giác nương nơi thân để làm
những việc thiện lành, tốt đẹp mà giúp người, cứu vật. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Trong các pháp do tâm làm chủ

Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên

Tâm mê tạo nghiệp chẳng lành

Như xe lăn bánh, khổ liền theo sau.

Tâm
giác
tạo nghiệp thiện lành
 

Như hình với bóng, vui liền theo
sau
.

Đức Phật
nói tâm làm chủ, tức là nói đến cái biết của con người; cái biết phân biệt do ý
thức
và cái biết thường hằng, tức là cái thường biết rõ ràng. Bài kệ xác định
tâm
làm chủ tạo ra các duyên tốt hay xấu, nếu biết cách vận dụng nó chúng ta sẽ
thoát khỏi khổ đau luân hồi-sinh tử, bằng không sẽ sống trong đau khổ lầm mê. Một
số người cho rằng thân là thật và quan trọng hơn hết. Ngược lại, Phật cho rằng
nghiệp ý là quan trọng. Khi ý suy nghĩ, miệng nói năng rồi thân mới hành động. Cho
nên, đức Phật nói tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Chính yếu của sự tu hành
tu ngay nơi thân-miệng-ý mà tâm là chính vì sự tu hành của chúng ta phát xuất
từ tâm. Tâm suy nghĩ chân chính rồi mới phát sinh ra hành động tốt đẹp. Tâm suy
nghĩ
tà vạy thì phát sinh ra những hành động xấu ác. Vậy thân này hành động tốt
hay xấu đều do tâm chủ động điều hành nên tâm là quan trọng hơn hết, không có
tâm thân này như phế bỏ.

Đi xa hơn nữa, ngài Lục tổ Huệ Năng đi thẳng
vào phần tinh thần, có nghĩa là trực chỉ nơi tâm mà thể nhập cái gốc ban đầu
Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Chính vì vậy mà Ngài nói
bài kệ:

Bồ đề vốn không cây

Gương sáng chẳng phải đài.

Xưa nay không một vật

Chỗ nào dính bụi bặm?

Bồ đề là chỉ cho cái biết sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý,
cái biết ấy không có hình tướng mà chỉ thường biết rõ ràng thì làm sao thân là
cây Bồ đề được. Thân tuy hiện hữu nhưng lại không có thực thể cố định nên có
sinh-già-bệnh-chết thì làm gì có hình tướng thật. Cho nên, ngài Thần Tú nói
thân là cây Bồ đề, còn Lục tổ nói Bồ đềtính giác sáng suốt. Qua câu nói này
ta thấy thân tâm không tách rời nhau. Tâm trong sáng, thanh tịnh thì biến hiện
ra
thân đẹp đẽ, trang nghiêm. Câu nói “tâm như đài gương sáng” của ngài Thần Tú
ý nói gương thì nó tự sáng chớ không phải do đài mà gương được sáng trong. Cái gì
thật thì trước sau như một, không cần thứ gì tô điểm thêm cho nó. Bản chất của
gương xưa nay là tự sáng, chỉ vì bị bụi lâu ngày bám dính nên bị lu mờ, khi bụi
hết thì gương sáng rỡ chiếu khắp cả nhân gian. Ngài Huệ Năng lại nói chỗ đó
không hình tướng nên xưa nay không có vật nào. Vậy chỗ nào dính bụi bặm? Lục tổ
Huệ Năng
thể nhập tính biết thanh tịnh, sáng suốt nên chỗ thấy của ngài trong sạch,
lặng lẽ, sáng trong mà hay soi sáng muôn loài vật. Cái thấy của Lục tổ Huệ Năng
là nói theo thể tánh không có hình tướng đối đãi, đó là đỉnh cao của Phật pháp.
Chúng ta bị dính mắc đủ thứ
nên phải xả bỏ từ từ, chính vì vậychúng ta phải siêng năng lau chùi, bữa
nào làm biếng thì lại để bụi dính bám đầy.

Ngài Thần Tú và cả Lục tổ Huệ Năng đều nói đúng.
Ngài Thần Tú thì chỉ dạy theo thứ lớp để số đông dễ tiếp thucố gắng kiên
trì
bền bỉ lau chùi, dọn dẹp cho đến khi bụi phiền não hết rồi cũng đồng một chỗ
sáng. Ngày nay, có một số người không chịu tu sửa mà chỉ biết lấy lời tổ để dẫn
chứng
lý luận suông nên rơi vào Thiền trên miệng lưỡi, thực tế thì phiền não
tham-sân-si đầy dẫy. Người sau này lại có bệnh người xưa nói sao mình nghe vậy
không có sự chiêm nghiệm, quán xét, chiếu soi. Kinh điển lời Phật, tổ dạy chỉ
là tấm bản đồ hướng dẫn người chưa được thì phải tiệm tu thứ lớp, người được rồi
thì không cần phải lý luận nhiều mà chỉ y theo đó mà thể nhập cho đến khi thành
tựu
viên mãn mới thôi. Do vậy mà có tổ nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,
nhưng việc lớn sáng rồi cũng như đưa ma mẹ.” Bởi vì chúng ta mới thấy biết Phật
nhân
mà thôi, còn quá trình sống với Phật quả cần phảithời gian lâu dài mới
được. Chính vì vậyLục tổ phải mất 18 năm mới thành tựu viên mãn và mới bắt
đầu ra giáo hóa.

Lại có hạng người tuy giàu có, dư dả nhưng lại sống khổ sở hơn cả người
nghèo vì chẳng dám tiêu xài, nói chi đem ra giúp đỡ những người khác. Họ sống
trong tham lam ích kỷ, lao tâm nhọc sức để tích chứa cho riêng mình. Muốn cho
xã hội được phát triển vững mạnh, lâu dài, con người cần phải làm giàu tri thức
đạo đức. Tri thức giúp ta phát triển xã hội, đạo đức giúp con người sống có
hiểu biếtyêu thương hơn. Tri thứcđạo đức như đôi cánh chim tung bay khắp
cả bầu trời rộng lớn bồi đắp cho nhân loại sống có tình người, biết yêu thương,
nương tựa vào nhau. Thiếu tri thức thì ta không thể giúp ích gì được cho ai. Ngược
lại, có tri thức mà không có nhân cách đạo đức thì ta dễ dàng bị tha hóa, tiêu
cực
bởi sự hấp dẫn của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp mà làm
thiệt hại cho nhau.

Con người là chủ nhân của bao điều họa phúc, bất hạnh hay an vui đều
do chính mình tạo nên. Chúng ta hãy vì tình thương của nhân loại mà cùng nâng đỡ
và chia sẻ cho nhau. Con người hơn hẳn các loài khác là vì có hiểu biết, có tri
giác
nên dễ dàng cùng nhau chia vui sớt khổ, thiết lập tình yêu thương chân thật
theo nhịp cầu tương thân tương ái trong cuộc sống. Những người
không hiểu Chánh pháp có thể nói rằng: “Cái anh đó dại quá! Tại sao bị
chửi, bị nói nặng, bị đàn áp như vậy mà không có phản ứng, không có la mắng trở
lại
, dại chi mà dại quá vậy!” Một nền giáo
dục
chân chính là biết cách hướng dẫn con người từ suy nghĩ, lời nói cho đến
hành động đều mang tính chất đạo đức, tình thương và giúp họ thoát khỏi con
đường
sa đọa, trụy lạc để sống đời bình yên, hạnh
phúc
. Vấn đề then chốt là làm thế nào để xã hội có thể xây dựng nền giáo dục
chân chính, hướng dẫn con người biết cách làm chủ bản thânvượt qua mọi thứ
cám dỗ, dục vọng thấp hèn và có trách nhiệm cao cả, thiêng liêng với cuộc đời.

Mục đích giáo dục chân chính là làm sao thiết lập được chất liệu của
tình thương để khai mở con người tâm linh của chính mình mà đánh bật đi bóng dáng
tự ngã của “cái tôi” ích kỷ; xây dựng một con người đạo đức có khả năng bao
dung
tha thứ, yêu thương và chia sẻ, biết nâng đỡ cho nhau bằng tình người
trong cuộc sống. Suy cho cùng, những ai biết quay lại chính mình để nhìn thấy
rõ ràng từng tâm niệm phát sinh mà tìm cách chuyển hoá để sống với tâm chân
thật ban đầu thì đó là thấy-nghe-hay-biết mà thường lặng lẽ, sáng trong. Tâm hồn
của chúng ta lâu nay bị đóng khung bởi những bức tường xã hội, bởi những định
kiến
hẹp hòi của một số người thấy biết sai lầm. Giờ đây, qua con đường giáo
dục
tâm linh và sự trải nghiệm trong đời sống gia đình, chúng ta có thể xây
dựng
tâm mình bằng niềm tin nhân quả trong nhịp cầu tương thân tương ái. Đồng
thời
, mỗi cá nhân tự phấn đấu vươn lên để biết cách làm chủ bản thân, đừng để
bị lôi cuốn vào những bức tường thành đen tối do tham lam, sân hậnsi mê chi
phối
.

Muốn được như vậy chúng ta phải học hỏitu tập cho thấu đáo lẽ thật-giả
trong cuộc đời. Chúng ta cần phải biết lắng nghe tiếng chim hót, biết nhìn dòng
sông chảy, biết lắng nghe tiếng con người than thở trong nỗi khổ niềm đau của
cuộc sống. Chính vì vậy, ngay bây giờ chúng ta hãy nên tìm cho mình một lối
sống
thanh cao, thánh thiện vượt ngoài những giáo điều cứng ngắt mà vươn lên làm
đẹp cuộc đời. Có nhiều điều chúng ta cũng cần phải học nơi bản thân mình qua
những lần vấp ngã để biết cách chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành
lượng
trí tuệ từ bi, nhờ vậy cuộc sống của ta được bình yên, hạnh phúc.

Trong những nỗi lo lắng, sợ hãi, đau buồn, chán nản khi gặp khó khăn,
thất bại con người thường mất hết niềm tin mà lao vào những canh bạc đỏ đen rồi
dìm chết đời mình trong đêm tối. Vì muốn có được danh vọng hay nắm giữ quyền
lực
cho đến hơi thở cuối cùngcon người nghĩ ra nhiều mưu mô, kế độc nhằm
đạt đến ngưỡng cửa của tham vọng. Dù đó không phải là năng lực của chính bản
thân
nhưng ta vẫn ôm giữ mãi không chịu nhường cho ai. Chuyện này thường xảy ra
nhan nhãn trong đời sống hằng ngày. Chúng ta chỉ vì lòng tham lam, ích kỷ, hẹp
hòi mà tối ngày tranh giành địa vị, nuôi mộng đấu tranh để được quyền lực tối
cao
.

Nhân loại trên
đà phát triển nhìn vào thực tế cuộc sống chúng ta thấy rõ thế giới con người
đang phát triển, mở mang đến mức cực thịnh với nhiều hình thái rất phong phú,
đa dạng, huyền bí và phức tạp đến vô cùng. Nền văn minh
khoa học kỹ thuật phát triển đã đem đến cho con người một cuộc sống sung túc,
phồn thịnh. Ăn uống sung sướng, quần áo sang trọng, trang sức hợp thời trang,
nhà cao cửa rộng đầy đủ tiện nghi, thuốc thang trị liệu đa dạng, phương tiện đi
lại dễ dàng, đường phố ngập tràn những chiếc xe hơi bóng loáng… Sự văn minh tiến bộ vượt bậc của nền khoa học kỹ
thuật đã đem đến cho con người mọi nhu cầu thoả đáng, đời sống vật chất sung
mãn
, đầy đủ. Tuy nhiên, vật chất càng sung mãn thì càng làm sự tham muốn của
con người không bao giờ biết đủ, biết chán, biết thỏa mãn để dừng lại và cuối
cùng
là không biết bằng lòng với hiện tại.

Tất cả mọi
tiện nghi vật chất sung mãn vẫn không mang đến cho con người có được một cuộc
sống bình yên, an vui và hạnh phúc thực sự. Ngược lại, chúng ta đều mang sẵn
một nỗi niềm ưu tư, lo lắng, sợ hãi, bất anphiền muộn. Con người cứ luôn đi
tìm những cảm giác mới lạ để được tận hưởng những thú vui trong ngũ dục cuộc
đời
. Sự mong muốn này vừa được đáp ứng thì con người lại thấy không hài lòng,
thỏa mãn và liền chạy tìm một nhu cầu mới khác có hiệu quả cao hơn để tận hưởng
cảm giác lâu bền rồi tự giết đời mình trong vô minh mê muội. Một khi con người
đã chạy theo dục vọng thì không biết chỗ dừng như túi tham không đáy, lúc nào
cũng cảm thấy thiếu thốnthèm khát. Sự văn minh tiến bộ về tiện nghi vật
chất
làm cho tinh thần con người bị sa sút bởi sự đam mê, quyến rũ của dục
vọng
.

Nhưng
chúng ta phải làm thế nào để trở thành một con ngườiđạo đức tâm
linh
hoàn chỉnh? Muốn trở thành con người tâm linh không phải đơn giản, dễ
dàng. Nó đòi hỏi chúng ta đối với bản thân phải luôn biết xét nét, nhìn kỹ lại
chính mình để thấy được những lỗi nhỏ nhặt nhất mà tìm cách khắc phục, chuyển
hóa
chúng. Người có đức hạnh phải biết làm chủ bản thân qua các cảm thọ, xúc chạm
để thấy biết rõ ràng sự thật nơi thân này. Biết cảm thôngtha thứ, bao dung
độ lượng cho những ai đã từng làm cho mình đau khổ tột cùng; luôn sống vì lợi
ích
chung, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình. Ai sống được như vậy
là người đức hạnh, đạo đức và đang đi trên con đường giác ngộ. Chúng ta hãy nên
học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm mà sẵn sàng chia vui, sớt khổ
lợi ích
tha nhân; sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui, hạnh
phúc
. Thế gian này có năm loài cùng chung ở trong sáu nẻo luân hồi nhưng con
người
là một chúng sinh cao cấp nhờ có suy nghĩ, nhận thức, biết phân biệt đúng
sai. Nếu biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp thì không ai bằng và ngược lại
thì vô cùng cực ác.

Lịch sử nhân loại đã chứng
minh
cho chúng ta thấy rõ điều đó. Chỉ có con người tâm linh mới có đủ khả năng
giúp nhân loại vượt qua rào cản của si mê, tội lỗi nhờ có hiểu biếtthương
yêu
trong tinh thần bình đẳng. Ai làm người cũng phải một lần biết thao thức,
trăn trở để mở rộng tấm lòng mà cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống.
Đời sống con người luôn song hành hai phần thân và tâm, tức thể xác và tinh thần.
Nhưng đa số chúng ta chỉ chú trọng về phần vật chất nên cung phụng cho thân nhiều
quên lãng đi yếu tố tinh thần, tuy sống trong giàu có, tiện nghi mà lại
nghèo nàn tâm linh nên thường thất vọng, đau khổ. Tóm lại, thân và tâm không thể
tách rời nhau, thân hành động tốt hay xấu đều do tâm điều khiển. Những ai đã sống
được với bản tâm chân thật rồi thì làm việc gì cũng đều có lợi ích.

Tôi lúc trước si mê cùng lầm lỗi
Gây biết bao khổ não
cho nhiều người
Nhờ Tam bảo, mẹ hiền
đã tế độ
Tôi vượt qua bao tăm
tối, ưu phiền
Để rồi đây kết
nguyện
với muôn loài
Hầu đền đáp, sẻ chia
cùng tất cả
Để cùng nhau kết nối
tình yêu thương
Cùng vui sống bằng
trái tim hiểu biết.


(CÙNG TÁC GIẢ)