Con Đường Tu Tập Của Người Phật Tử Qua Kinh Trung Bộ

0
33

CON ĐƯỜNG TU TẬP CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
QUA KINH TRUNG BỘ
Trần Như Mai

cusi-lytangcusi-lytangGiới thiệu
: Đây là bài phát biểu của tôi nhân dịp kêt
thúc lớp học Kinh Trung Bộ tại Thiền Viện Vạn Hạnh – Saigon, năm 1988, do HT
Thích Minh Châu giảng dạy.

________________

Trước những sự
kiện
diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết
bao câu hỏi “ Tại sao ?”…

Tại sao cuộc
sống đầy rẫy những khổ đau, bất hạnh, bất như ý ?

Tại sao cùng
sinh ra làm kiếp người mà lại có muôn vàn sai khác, cách biệt nhau ?

Tại sao niềm vui
thường chóng tàn, còn khổ đau, phiền não thì cứ triền miên như bất tận?

 Làm thế nào để hết khổ được vui ?

Tất cả những câu
hỏi đó, triết học thế gian cũng như nhiều tôn giáo đã từng đưa ra nhiều lời
giải đáp khác nhau, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Với lòng khao khát
chân lý và mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của chính bản thân
cuộc sống, tôi đã tìm đến Thiền Viện Vạn Hạnh – Saigon và xin theo học lớp Kinh
Trung Bộ dành cho cư sĩ, do Hòa Thượng Thích Minh Châu giảng dạy.

Trước đây, tôi
vẫn thường nghe nhiều người phê bình đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, tiêu
cực
; là đạo của những kẻ chán đời, thất bại trong cuộc sống và muốn trốn chạy thực
tại
; hay là đạo của những người già muốn tìm nơi nương tựa trong những ngày
cuối cùng của cuộc đời. Thế nhưng, sau hơn hai năm theo học lớp Kinh Trung Bộ,
tôi thấy những lời giảng dạy của Đức Phật rất thiết thực, đã giúp tôi giải toả
biết bao ưu tư phiền não, đã đem lại cho tôi một nguồn an lạc thanh cao, một
sức mạnh tinh thần vững chắc để làm hành trang trên vạn nẻo đường đời, và đã
thay đổi cách nhìn của tôi về con người và cuộc sống.

Từ mỗi bài kinh
tôi đều có thể rút ra ít nhất là một bài học thực tiển để suy nghĩáp dụng
trong cuộc sống hằng ngày, dù đó là bài kinh Đức Phật thuyết giảng cho các tỷkheo, cư sĩ hay những người ngoại đạo. Những bài học thực tiển rút ra từ Kinh
Trung Bộ rất nhiều và phong phú, nhưng
trong phạm vi giới hạn của bài viết này, tôi chỉ xin đề cập sơ lược một vấn đề
thiết thân, cốt lõi nhất của chúng ta, đó là vấn đề “ Tại sao con người đau khổ
?” và “ Làm thế nào để hết khổ ?”.

Giáo pháp của
Đức Phật vô cùng thâm sâu vi diệu, dù ta bỏ cả cuộc đời để nghiên cứu học hỏi
chắc cũng chưa đủ. Thế nhưng nhìn xuyên suốt quá trình 45 năm hoằng pháp độ
sinh
, Đức Phật đã khẳng định: “ Này các tỷ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ
nói một điều, đó là sự khổ và diệt khổ”.

Vậy thế nào là
khổ ?

Theo cách hiểu
thông thường của chúng ta thì khổ có hai loại : vật chấttinh thần. Về vật chất
thì già yếu, bệnh tật, đói rách, thiếu thốn mọi nhu cầu của cuộc sống hằng ngày
là khổ. Về tinh thần thì tất cả những điều gì trái ý nghịch lòng đều làm ta
khổ: phải xa cách người mình thương là khổ, phải gần gũi người mình ghét là
khổ, cầu mong mơ ước không thành là khổ…vv . Nhưng với trí tuệ của một bậc
Toàn Giác, Đức Phật đã có một cái nhìn thật rốt ráo về khổ, Ngài khẳng định :
“Tất cả những gì vô thường đều là khổ”.

Quả thật, từ khi
sinh ra cho đến lúc lớn lên, học hành rồi đi làm việc, ta thấy cuộc sống như
một giòng sông phẳng lặng, êm đềm trôi chảy mãi không thôi. Ta không hề chú ý
đến những biến hoại đang âm thầm diễn ra từng giây phút trong vạn vật cũng như
trong chính bản thân mình. Ngay trong thân thể của chúng ta, mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân… mỗi ngày qua là mỗi biến đổi, hao mòn suy yếu; thế mà ta cứ tưởng
rằng mình vẫn giữ được mãi nét thanh xuân, nên ta không ngừng mọi nỗ lực để tô
bồi cho thân ta ngày càng trẻ trung tươi đẹp ! Ta bị cuốn hút vào việc mưu cầu
lợi
ích cho bản thân, nào là tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, tình
yêu..vv., và cho rằng đó là mục đích của cuộc sống, là lý tưởng, là nguồn hạnh
phúc
duy nhất của đời người. Ta say sưa trong men dục của thế gian và tưởng
rằng những gì ta đạt được sẽ mãi mãi là của ta. Cho đến một ngày kia, ta
gặp một biến cố bất thường, một sự thất
bại, một sự mất mát lớn lao đập mạnh vào tim khiến ta đớn đau, bàng hoàng, rời
: như mất tài sản, điạ vị, danh vọng mà ta đã dày công xây đắp, mất tình yêu,
mất sắc đẹp, mất người thân yêu nhất của ta…vv. Ta giật mình nhìn lại chuổi
ngày qua, nhìn lại mình và tự hỏi “ Đây có phải là hạnh phúc đích thực chăng ?”. Nếu là hạnh phúc đích thực, nó phải trường tồn, vĩnh viễn, không bao giờ
mất. Tại sao ta bây giờ không còn là ta của những ngày đã qua ? Tại sao niềm
vui giờ đã tan biến và chỉ còn lại nỗi chán chường, mệt mỏi, thất vọng, muộn
phiền ? Ta giật mình hoảng hốt, muốn níu kéo lại những gì đã qua nhưng nào có được!
Ta cảm thấy bất lực và đau khổ muôn vàn…Ở đây, lời dạy của Đức Phật đã soi
sáng
cho ta chân lý muôn đời:“ Tất cả các pháp đều vô thường, và tất cả
những gì vô thường đều là khổ”.

Vậy nguồn gốc
của khổ đau do đâu mà có ?

Ta biết rằng khổ
đau có mặt cùng với sự hiện hữu của con người. Khổ đau do con người phát hiện
và cảm nhận. Nếu khôngcon người thì không thể đặt ra vấn đề đau khổ. Triết
học
thế gian đã từng nêu vấn đề: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và sẽ đi về đâu
?”. Nhưng những lời giải đáp mang tính chất siêu hình của triết học thế gian
không làm thỏa mãn những người đang khao khát đi tìm chân lý. Đôi lúc con người
lại muốn ngụy biện về sự hiện hữu của mình theo kiểu ‘ triết lý hiện sinh’ :“Tôi
đâu có muốn sinh ra đời, chính vì do ý muốndục vọng của cha mẹ tôi mà tôi
phải có mặt trong đời này. Vậy cha mẹ tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về
những khổ đau của tôi !”.

Ở đây, Đức Phật
đã đưa ra một lời giải đáp rốt ráo về nguyên nhân sự hiện hữu của con người
trong cuộc đời qua Lý Duyên Khởi. Trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Đức Phật dạy
rằng, ta có mặt trong đời không phải là một sự ngẫu nhiên, mà chính do ái dục,
do lòng khao khát muốn được tiếp tục thọ hưởng các dục lạcthế gian mà thức
của ta đã gá vào bào thai của người mẹ vào đúng thời điểm hội đủ các điều kiện
thuận lợi của bốn món ăn: đoạn thực, xúc thực, tư niệm thựcthức thực, để
rồi từ đó một con người được sinh ra trong cõi đời này. Chính bốn món ăn này do
ái dục làm nhân duyên, và ái dục này phát xuất từ vô minh, để cho ra đời toàn
bộ
khổ uẩn của con người : sinh , già, bệnh, chết.

Tại sao Đức Phật
dạy rằng vô minh kết hợp với ái dục để phát sinh toàn bộ nỗi thống khổ của con
người
?

Ta hiểu rằng do
ái dục, con người được sinh ra. Lúc còn nhỏ, ta chưa có khuynh hướng tâm lý
ràng
; nhưng lúc lớn lên và bắt đầu hiểu biết, khi sáu căn của ta tiếp xúc với
sáu trần, tham ái bắt đầu khởi. Ta bắt đầu phát sinh những tình cảm như yêu
thích, giận hờn, ghét bỏ, ham muốn…, và từ từ ta bị lôi cuốn vào các dục trưởng
dưỡng
: sắc, thanh, hương, vị, xúc…Sự cám dỗ của các dục ngày càng gia tăng
theo tốc độ phát triển của nền văn minh vật chất. Được cái này, ta lại muốn cái
kia; được cái kia ta lại muốn cái nọ, cứ muốn sao cho bằng hoặc hơn bạn bè,
con
, thiên hạ. Ta không những muốn ăn ngon mặc đẹp, muốn có người yêu lý tưởng,
mà còn muốn giàu sang, danh vọng, địa vị xã hội, quyền lực… để cho mọi người
nể nang, thán phục. Ta thấy tự ngã của mình ngày càng lớn, chẳng muốn thua kém
ai, càng ngày ta càng chìm đắm trong biển dục mênh mông không biết đâu là bờ
bến…

Chính vì vô minh
nên ta không hiểu được sự nguy hiểm của các dục, như Đức Phật đã dạy: “Này
các tỷ kheo, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, ở đây sự nguy hiểm lại càng
nhiều hơn”.
Chính vì vô minh, ta chấp thân làm ngã. Ta chấp sắc, thọ,
tưởng, hành , thức này là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Do đó, ta tìm mọi cách,
mọi phương tiện để làm thỏa mãn tấm thân ngũ uẩn này. Đức Phật dạy rằng, Ác Ma
vốn không phải ai xa lạ, nó chính là năm dục trưởng dưỡng. Khi ta tham đắm dục
lạc
, chính là lúc ta đã rơi vào bàn tay của Ác Ma, bị Ác Ma điều khiển, ta làm
theo mệnh lệnh của Ác Ma, để rồi dấn thân tạo nghiệp, thọ khổ…, và kết quả là
tiếp tục quanh quẩn trong sáu nẻo luân hồi. Như vậy, vô minh kết hợp với ái
dục
: vô minh sinh ái dục, và ái dục nuôi dưỡng vô minh. Cứ như thế, toàn bộ khổ
uẩn
của con người bắt đầu từ đó, như Lý Duyên Khởi đã nêu rõ.

Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì
và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là
Bát Chánh Đạo, và khởi đầu là Chánh Tri Kiến. Muốn có được Chánh Tri Kiến, ta
phải biết tu tập để phát triển trí tuệ. Đây quả thực không phải là một vấn đề đơn giản
cho những phàm phu như chúng ta. Ta có thể hiểu được khổ và nguồn gốc của khổ,
nhưng ta không thể nào diệt được khổ nếu ta không có trí tuệ.

Vậy thế nào là người có trí tuệ ?

Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đã nhiều
lần đề cập đến người có trí : ‘ Người có
trí là người có nghe lời dạy của Đức Phật, có tu tập hành trì đúng như lời Phật
dạy
, biết rõ sự sanh diệt của các pháp. Người ấy biết rõ: đây là lậu hoặc, đây
lậu hoặc tập khởi, đây là lậu hoặc đoạn diệt, đây là con đường đi đến lậu
hoặc
đoạn diệt
. Từ đó, người ấy tinh
tấn tu tập
hành trì để dần dần đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến đoạn diệt các mầm
mống của sanh y, tiến tới an lạc, giải thoát, Niết Bàn.’

Đức Phật đã dạy: “Này, các tỷ kheo,
phàm như có sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa nào khởi lên, chúng chỉ khởi từ người
ngu, không khởi từ người trí”.
Vì sao ? Vì người trí đã có tri kiến như
thật
về sự sanh diệt của các pháp, người ấy đã biết rõ thế nào là khổ, đâu là
nguyên nhân, và con đường diệt khổ. Từ đó, người ấy biết rõ việc gì nên làm và
việc gì không nên làm. Người ấy biết rõ các pháp bất thiện sẽ đem lại sự sợ
hãi
, nguy hiểm, tai họa… nên người ấy cương quyết không làm. Người ấy biết rõ
các thiện pháp sẽ đem lại hạnh phúc an lạc, nên người ấy cố gắng tinh tấn thực
hiện
. Do đó sự sợ hãi, nguy hiểm, tai họa, khổ đau sẽ không đến gần người có
trí.

Đối với chúng ta đang còn là những phàm
phu
, bản chất chúng ta vốn yếu đuối về cả trí tuệ lẫn thể xác. Vì vậy, khi một
việc bất hạnh, phiền não xảy ra, chúng ta như người bị trúng hai mũi tên độc:
thân ta đau đớn và tâm ta cũng đau đớn. Muốn nhổ mũi tên độc trong thân, chỉ
cần có thầy hay thuốc tốt là có thể lành bệnh, nhưng muốn nhổ mũi tên độc trong
tâm thật vô cùng khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải có một sức mạnh tinh thần phi
thường
, sức mạnh ấy phát xuất từ trí tuệ.

Do đó, muốn có trí tuệ, ta phải biết thân
cận với người có trí, để nghe pháp, tùy pháphành pháp. Nhờ nghe pháp nhiều,
tâm trí ta ngày càng được soi sáng, ta hiểu được Lý Duyên Khởi, sinh lòng tin
vào Phật, Pháp, Tăng. Ta cố gắng giữ gìn giới luật, hộ trì các căn, sống thiểu
dục tri túc
, chế ngự không cho tham ái khởi lên, giữ vững chánh niệm tỉnh giác
trong đời sống hằng ngày. Ta hiểu được nguyên nhân vì sao ta có mặt trong đời,
vì sao ta gặp bất hạnh hay được sung sướng, vì sao cùng là con người mà lại có
muôn vàn sai khác cách biệt nhau. Tất cả đều do hành động của ta, do nghiệp mà
ta đã tạo trong quá khứhiện tại. Sự đau khổ trong hiện tại là do nghiệp của
ta đã tạo trong quá khứ. Vậy muốn chấm dứt đau khổ, ta phải tích cực thực hiện
những hành động thiện để chuyển nghiệp.

Thế nào là hành động thiện ?

Đức Phật đã định nghĩa rất rõ: “Hành
động nào đem đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai là hành động thiện. Hành động
nào đem đến hại mình, hại người, hại cả hai là hành động bất thiện”.
Bởi
thế, trước khi làm việc gì, ta phải suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, xem hành động
sắp làm là thiện hay bất thiện; ngay cả những hành động nào chỉ lợi cho mình mà
không lợi cho người ta cũng nên tránh. Trong tâm ta, ta phải luôn luôn giữ vững
chánh niệm, tỉnh giác để kiểm soát dòng tư duy của mình. Khi có một ý niệm bất
thiện
chợt thoáng qua, ta cố gắng quên ngay, đừng bao giờ cho phép nó khởi lên;
và nếu nó đã khởi lên rồi thì ta cố gắng tìm cách đoạn trừ. Khi một ý niệm
thiện chưa khởi, ta hãy tìm cách tạo điều kiện cho nó sinh khởi, và khi một ý
niệm
thiện đã khởi lên, ta cố gắng nuôi dưỡng cho nó càng ngày càng tăng trưởng
tốt đẹp hơn. Ta cố gắng tu tập trong từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động
nhỏ hằng ngày. Cố gắng giữ gìn thế nào để tâm chỉ nghĩ đến điều thiện, miệng
chỉ nói những lời thiện, thân chỉ làm những việc thiện. Đó chính là quá trình
rèn luyện để có được Chánh Tri Kiến, từ đó đưa đến Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp và Chánh Mạng…

Đây quả thực là một con đường tu tập rất
khó khăn đối với những phàm phu như chúng ta. Bởi vì ý nghiệp đã ăn sâu vào
tiềm thức, đã chi phối, hình thành nếp suy nghĩ, thói quen và hành động thường
ngày của ta, chúng là những tập khí sâu dày mà ta đã tích tụ từ vô lượng kiếp.
Hơn nữa, bản chất của ta vốn do ái dục sinh, và ta đang trầm mình trong dục
giới
với đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến; do đó, ta rất dễ bị dục vọng
lôi cuốn và trở nên yếu đuối, quên mất lời Phật dạy, chìu theo dục vọng
buông thả với chính mình. Chỉ cần mất tỉnh giác, buông lơi, phóng dật, dễ dãi
với chính mình là ta đã rơi ngay vào vòng tay của Ác Ma dục vọng và chịu sự
điều khiển của nó.

Vì vậy, muốn tu tập có kết quả, ta phải
nghiêm khắc với chính mình và tinh tấn hành trì với niềm tin bất thối chuyển
vào những lời Phật dạy, đây chính là thực hành Chánh Tinh Tấn. Giữ gìn năm giới
là một hình thức kỷ luật tự giác của bản thân, ta phải xem giữ giới là điều tâm
niệm
hằng ngày. Tiếp đến, ta phải hành thiền đều đặn để thanh tịnh tam nghiệp, giữ
vững chánh niệm, và phát triển tuệ giác. Hành thiền chính là một quá trình
thanh lọc tâm hữu hiệu nhất, như Đức Phật đã dạy: “Thiền là thay thế năm
triền cái bằng năm thiền chi”.
 

Trong quá trình thanh lọc tâm, bước đầu
ta từ bỏ các pháp bất thiện về thân, khẩu, ý, và cố gắng thành tựu các thiện
pháp
về thân, khẩu, ý. Tiếp đến ta từng bước thực tập pháp Quán Niệm Hơi Thở
Vào – Hơi Thở Ra, tập trung sự chú tâm vào đối tượng là hơi thở để thiết lập
chánh niệm vững chắc, dần dần loại bỏ năm triền cái là Tham, Sân, Hôn Trầm Thụy
Miên
, Trạo Hối, Nghi và thay thế bằng năm thiền chi là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất
Tâm
.

Đây là một quá trình tu tập lâu dài
khó khăn đối với chúng ta, vì ta biết rằng năm triền cáikẻ thù bên trong
chúng ta. Tiêu diệt kẻ thù bên trong bản thân mình quả thật vô cùng khó khăn
gian khổ, đòi hỏi ta phải có nghị lực lớn, quyết tâm cao để có thể tinh tấn
hành trì mà không nản lòng, thối chí. Chỉ có hành thiền mới giúp ta tăng cường
nội lực, phát triển định lực, đưa đến tuệ giác để thấy rõ sự vật đúng như thật.
Nhờ vậy ta mới tạo được sức mạnh tinh thần để đối trị các dục, và vượt qua được
những cơn khủng hoảng khiến ta trở nên yếu đuối trước sức cám dỗ của Ác Ma.
Hành thiền là con đường đưa đến Chánh
Niệm
Chánh Định.

Khi tâm ta đã được định tĩnh, đã tìm được
nguồn an lạc do thiền đem lại, ta cảm thấy nhẹ nhàng thư thái, dần dần buông xả
được những trói buộc của dục vọng vốn đã làm ta đau khổ bấy lâu nay. Ta đã hiểu
được Vô Thường là qui luật chung của vạn pháp, không có gì là thường hằng, vĩnh
cữu
; và tất cả những gì vô thường đều là Khổ. Ta cũng hiểu được rằng chính vì
thường
nên tất cả các pháp đều Vô Ngã, không có tính chất cố định, không có gì
là ta, là của ta, hay là tự ngã của ta. Ta chỉ là một tập hợp của năm uẩn, của
tứ đại, và sẽ có ngày tan rã thành cát bụi. Như vậy, tiền tài, danh vọng, địa
vị
, sắc đẹp, tình yêu…, nói chung là các dục của thế gian, và ngay tấm thân
này, tất cả đều như bọt nước, như mây trôi, như giấc mộng, cuối cùng tất cả đều
trở về với cái thực tướng của nó là Không. Vậy có gì đáng cho ta tham đắm ? Còn
gì đáng cho ta chấp thủ, phiền não, khổ đau ? Chúng đến hay đi, còn hay mất, ta
hãy bình thản nhận biết và cố giữ cho tâm không dao động. Ta hãy chuẩn bị tinh
thần
để đón nhận vô thường như một người khách có hẹn trước. Nhờ vậy, khi vị
khách Vô Thường đến, ta không ngạc nhiên, không hoảng hốt, không sợ hãi, chỉ
bình thản nhận biết, ‘À, vị khách Vô Thường đã đến ! ’.

Khi ta đã giữ được tâm thanh tịnh, an
nhiên
tự tại, bình thản trước mọi biến cố thăng trầm trong cuộc sống, ấy là lúc
ta đã thấy được đạo, ta đã có được trí tuệ để thấy sự vật đúng như thật. Đây là lúc ta hưởng được cảnh Niết Bàn nơi
trần thế, ngay trong hiện tại này. Hạnh phúc chính là đây, đây mới là hạnh phúc
đích thực.

Khi ta đã thấy được chân lý, đã tìm được
an lạc cho chính mình, lòng ta bỗng trở nên bao dung, rộng lượng. Ta cảm thấy
thương yêu mọi người, nhìn mọi người bằng con mắt từ bi, nhìn cuộc đời với cõi
lòng rộng mở. Ta bỗng cảm thấy xót xa khi chung quanh ta có biết bao người đang
đau khổ. Vì thế ta quyết tâm dấn thân vào đời với tinh thần vô tham, vô sân,
si
, vô chấp thủ. Với lòng thương yêu tất cả chúng sanh, ta nguyện đem hết khả
năng mình để phục vụ chúng sanh, giúp cho nhiều người bớt khổ được vui. Đó là
lý tưởng mà bất cứ người Phật tử chân chính nào cũng mơ uớc thực hiện.

Tóm lại, con đường tu tập của người Phật
tử
qua Kinh Trung Bộ chính là Tứ Diệu Đế ( Bốn Chân Lý Cao Thượng ) và Bát
Chánh Đạo
( Tám Con Đường Tu Tập Chơn Chánh ):

* Bốn Chân Lý Cao Thượng là : Khổ – Nguồn
gốc của Khổ – Khổ có thể được diệt trừ, và
Con đường diệt Khổ (tức là Bát Chánh Đạo
).

* Bát Chánh Đạo gồm có :

– Chánh Tri Kiến, nghĩa là hiểu biết đúng đắn,
chơn chánh. Đây là bước khởi đầu vô cùng quan trọng trên con đường tu tập của
chúng ta, vì có hiểu biết đúng đắn, chơn chánh ta mới có thể hành động đúng được,
như Đức Phật đã dạy :‘ Ý dẫn đầu các pháp’.

– Nhờ hiểu biết đúng, ta mới suy
nghĩ
đúng (Chánh Tư Duy), nói năng đúng (Chánh Ngữ), hành động đúng ( Chánh
Nghiệp
), chọn nghề sinh sống chơn chánh ( Chánh Mạng), siêng năng, tinh cần tu
tập
( Chánh Tinh Tấn), dẫn đến tâm luôn luôn tỉnh thức ( Chánh Niệm) tiến tới
tâm định tĩnh ( Chánh Định) và nhờ vậy
trí tuệ tỏa sáng, thấy rõ vạn pháp đúng như thật .

Như vậy, trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật đã
giảng dạy cho người Phật tử con đường tu tập ngay trong lòng cuộc đời, để
vừa có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc đích thực cho bản thân, vừa góp
phần xây dựng một xã hội ngày càng tốt
đẹp
hơn, trong đó mọi người biết sống chung hài hòa, biết thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, biết đem lòng từ, bi, hỷ, xả làm phương châm hành động.

Điều này chứng minh rằng đạo Phật không
phải là một tôn giáo tiêu cực, Đức Phật nêu lên vấn đề đau khổ vì đó là một sự
thật
không thể phủ nhận, ta phải mạnh dạn nhìn thẳng vào nó để tìm cách diệt
trừ
. Biết khổ và hiểu được nguyên nhân gây ra đau khổ, để rồi tìm phương pháp
diệt khổ hầu đem lại an vui hạnh phúc cho mình và cho xã hội, đó chính là mục
tiêu
cao thượng và tích cực của giáo lý đạo Phật.

Ta có thể kết luận rằng người Phật tử
chân chính là người hạnh phúc nhất, vì người ấy biết sống thiểu dục, tri túc,
không tham ái, không chấp thủ, an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh, và tìm được
an lạc ngay giữa lòng cuộc sống xô bồ, đầy biến động của thế gian này.

 

Trần
Như Mai (1988)