Chân Như Huân Tập

0
36

Chân Như huân tập
Nguyễn Thế Đăng

  1. Chân
    Như huân tập
    theo Luận Đại Thừa Khởi Tín

Chân Như huân tập là một thành ngữ được nói đến nhiều trong Luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ-tát
Minh
(giữa thế kỷ 1 và 2). Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu Chân Như huân tập
trong bộ luận ấy, để làm rõ khái niệm quan trọng có nhiều trong kinh luận Đại
thừa
.

Huân tập có nghĩa là xông ướp (huân) và
tập tành, quen thuộc, lặp đi lặp lại, tích tập (tập).

Thông thường, chúng ta đều biết, về phía hành giả, cần hướng đến Chân
Như
, như là thực tại tối hậu, cần “huân tập” Chân Như, “tương ưng, tùy thuận”
Chân Như, “xứng, chứng, nhập” Chân Như. (Những chữ, câu nằm trong ngoặc kép
trong bài này đều lấy từ Luận Đại Thừa Khởi
Tín
).

Còn Chân Như, cũng được gọi là “Pháp thân”, “Niết bàn”, “Nhất Tâm”,
“Pháp tánh, tánh của các pháp”, “chánh định căn bản”, “tánh giác”, “bản giác”,
“nguồn tâm”, “tâm tánh”, “tự tánh thanh tịnh tâm của chúng sanh”, “Phật tánh
thường lạc ngã tịnh”, “Như Lai tạng”, “Một vị”…

Con người đi đến Chân Như, thu ngắn sự cách biệt với Chân Như, kết nối với
Chân Như, tương ưng với Chân Như, chứng nhập Chân Như. Điều đó là rõ ràng.
Nhưng ở đây, Chân Như huân tập nghĩa là Chân Như cũng đi đến con người, thu
hút, hấp dẫn con người, lôi kéo con người về phía nó. Luận Khởi Tín nói về Chân Như huân tập như thế nào?

“Chân Như huân tập là từ vô thủy đến nay chúng sanh vốn đầy đủ tự thể
Chân Như vô lậu, sẵn đủ diệu dụng Chân Như chẳng thể nghĩ bàn, làm nền tảng cho
mọi cảnh giới. Bởi thể và dụng Chân Như hằng thường huân tập như vậy, nhờ sức
huân tập ấy khiến cho chúng sanh chán khổ sanh tử, thích cầu Niết-bàn, và tự
tin bản thân có sẵn Chân Như Phật tánh, phát tâm tu hành”.

“Sức huân tập của Chân Như” là sự kêu gọi, thức tỉnh, thu hút chúng ta
lìa bỏ sanh tử khổ đau để đi đến, tiếp xúc và hợp nhất với Chân Như thường lạc
ngã tịnh
. Ở mặt kia là vô minh mê lầm tự tích tập chính nó, tự huân tập lấy nó.
Vô minhbất giác không biết Chân Như do bị các thức làm mê lầm, che ngăn.
Nhưng những mê lầm che ngăn này chỉ là vọng sanh, vọng khởi trong chính Chân
Như
, không thường hằng bất biến. Do đó cái vô minh tạm thời ấy có thể bị tiêu
diệt
:

“Do vô minh huân tậpsanh khởi thức…

“Tâm Chân Như này từ vô thủy đến nay, tự tánh nó vốn thanh tịnh. Nhưng
vô minh thì vô minh làm nhiễm ô mà có tâm nhiễm ô. Tuy có tâm nhiễm ô nhưng
tâm Chân Như vẫn thường hằng bất biến. Thế nên chỉ có Phật mới biết trọn vẹn
nghĩa này.

Tức là bản tánh của tâm thường vô niệm,
nên gọi là bất biến. Bởi vì không thấu đạt Pháp giới Nhất tướng này, tâm không
tương ưng, hốt nhiên khởi niệm, nên gọi là vô minh”.

“Tất cả các pháp từ xưa nay không hề có niệm tưởng, chỉ có một chân tâm. Nhưng vì bất giác , tâm vọng động khởi
niệm, có ra các cảnh giới, gọi là vô minh”.

Tất cả chúng sanh chúng ta, dù vô minh dày
mỏng đều đang sống trong Chân Như, đang là Chân Như đấy thôi:

“Thí như mọi đồ sành sứ, từ tánh chất đến hình tướng đều đồng là đất
sét. Giác và các nghiệp huyễn vô minh bất giác cũng thế, tánh tướng đều đồng là
Chân Như. Thế nên trong kinh, y vào nghĩa Chân Như này, nói rằng: ‘Tất cả chúng
sanh
từ xưa nay vốn thường trụ trong Bồ-đề Niết-bàn, chẳng phải do tu mới có,
chẳng phải do làm mới được, rốt ráo không có cái gì là chứng đắc, cũng không có
tướng gì để thấy’. Nhưng thấy có sắc tướng chỉ là do tùy nghiệp nhiễm ôhiện
ra
, chẳng phải Chân Như có các sắc tướng ấy, vì thật tướng Chân Như là vô tướng”.

Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên
trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’
huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát, các hình tượng, xá lợi,
chùa tháp, pháp khí, các nơi hành hương…

Con đường Phật đạocon đường Chân Như huân tập hành giảhành giả
huân tập Chân Như. Sự huân tập này có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu chưa tương
ưng
với Chân Như nên chưa được sự huân tập trực tiếp của Chân Như, do đó hành
giả
phải dùng ý, ý thức để tu hành, sự tự lực huân tập phải rất mạnh mẽ nhưng lại
hữu hạn. Giai đoạn sau là đã tương ưng với Chân Như, mọi tu hành của hành giả đều
được Chân Như trực tiếp huân tập, do đó sự tu hành được tương thích hơn, đúng đắn
tốt đẹp hơn rất nhiều. Luận Khởi Tín nói:

“1. Chưa tương ưng: Các phàm phu, hàng Nhị thừa và Bồ-tát sơ phát tâm dùng
ý, ý thức để huân tập, nương dựa vào sức tin mà tu hành, chưa chứng vô phân biệt
trí
(căn bản trí) để tương ưng với thể Chân Như. Chưa được diệu dụng tự tại tu
hành
để tương ưng với dụng của Chân Như (tức là Sai biệt trí hay Hậu đắc trí).

2. Đã tương ưng: tức là các Bồ-tát đã bước đầu chứng nhập Pháp thân, đắc vô phân biệt trí, tương ưng với
trí thểtrí dụng của chư Phật, chỉ y vào năng lực của Pháp thân Chân Như
tự nhiên tu hành, tự nhiên huân tập Chân Như, diệt hẳn vô minh.

Lại nữa, từ vô thủy đến nay pháp
nhiễm vô minh huân tập không đứt, cho đến khi thành Phật thì diệt dứt hoàn
toàn
. Còn pháp tịnh Chân Như huân tập thì vĩnh viễn không dứt. Nghĩa này thế
nào? Vì Chân Như thường huân tập nên vọng tâm phải diệt mất. Vọng tâm diệt đến
đâu thì Pháp thân hiện bày đến đó. Pháp thân tự nhiêndiệu dụng huân tập
cùng
vô tận như vậy”.

Sự tiếp xúc, kết nối, hòa lẫn giữa cái dưới và cái trên, cái phần tử
cái toàn thể này được kinh điển nói đến nhiều. Ở đây trích một đoạn kinh Lăng Nghiêm, quyển tám:

“Như Lai ngược dòng đi xuống, còn Bồ-tát thuận dòng mà lên. Đến chỗ ranh
giới
của Giác thể Nhập trọn vẹn vào nhau, gọi là Đẳng giác”.

Chân Như huân tập từ bên ngoài, mạnh nhất là từ chư Phật, chư Bồ-tát và
Thiện tri thức, vì ở nơi các Ngài, Chân Như hiển lộ đầy đủ hoặc phần lớn:

“Lại nữa, trong Phật pháp nới có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được
thành tựu. Như tánh lửa có sẵn trong cây, tánh lửa là chánh nhân (của lửa).
Nhưng nếu không có người biết làm ra lửa, không dùng phương tiện mà cây tự cháy
thì không có chuyện ấy.

Tất cả chúng sanh cũng vậy, tuy có sức huân tập của chánh nhân Chân Như
Phật tánh, nhưng nếu không gặp chư Phật, chư Bồ-tát, Thiện tri thức làm ngoại
duyên
chỉ bày đường lối thì cũng không thể cắt đứt phiền não, đi vào Niết-bàn
được. Chuyện ấy cũng không thể có.

Ngược lại, tuy có sức của ngoại duyên, nhưng bên trong sức huân tập của
Chân Như thanh tịnh chưa hoạt động thì cũng không thể chán khổ sanh tử, thích cầu
Niết-bàn, phát tâm tu hành các pháp thiện được”.

Ở một đoạn khác, chúng ta thấy sự quan trọng của các thiện hạnh dựa vào
thế giới bên ngoài để huân tập Chân Như:

“Hỏi: Trước đã nói Pháp giới một tướng, Phật thể vốn không hai, tại sao
không chỉ niệm Chân Như mà phải lại tạm mượn tu các hạnh lành?

Đáp: ví như ngọc Ma-ni, thể tánh vốn sáng sạch, nhưng vẫn còn lẫn lộn
trong đất đá dơ bẩn. Nếu chỉ nghĩ đến tính chất quý báu của ngọc mà không dùng
các thứ phương tiện giũa mài thì cuối cùng chẳng thể được sáng sạch. Cũng vậy,
pháp thể Chân Như của chúng sanh tuy rỗng rang thanh tịnh nhưng vì còn vô lượng
phiền não nhiễm ô khắp tất cả pháp, nên phải dùng tất cả thiện hạnh để đối trị.
Nếu người tu tất cả các thiện pháp thì tự nhiên thuận về Chân Như vậy”.

Sự huân tu từ Chân Như bên ngoài là quan trọng đối với con đường Bồ-tát.
Tam bảo, chùa tháp, các pháp khí, các nghi lễ, các nơi hành hương… cho đến bố
thí
, nhẫn nhục… lợi mình lợi người… nghĩa là tất cả các thiện hạnh. Bởi vì Chân
Như
không chỉ ở trong, mà còn ở ngoài, bao trùm và hợp nhất chủ thể và khách thể.

Hơn nữa, Chân Nhưthật tánhthật tướng của tất cả các sự vật bên
ngoài: “Nhưng thể của Chân Như thì không thể trừ bỏ vì tất cả các pháp vốn đồng
là Chân, và Chân Như cũng không thể dựng lập vì tất cả các pháp vốn đồng là
Như. Phải biết tất cả các pháp không thể nói năng, không thể suy nghĩ, nên gọi
là Chân Như”. Kinh Kim Cương nói: “Tất
cả các pháp đều là Phật pháp”.

Các hạnh lành, các Phật sự là sự tương tác giữa người tu và ngoại cảnh để
tìm thấytương ưng với Chân Như. Các hạnh lành của con đường Bồ-tát đều y
trên Chân Như mà làm. Luận Khởi Tín
nói về các Ba la mật:

“Vì biết pháp tánh Chân Như không có bỏn sẻn tham lam, nên tùy thuận
Chân Như tu hành Bố thí Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh Chân Như không có nhiễm ô,
lìa các lỗi năm dục, nên tùy thuận Chân Như tu hành Trì giới Ba-la-mật. Vì biết
pháp tánh Chân Như không có khổ não, lìa khỏi sân hận, nên tùy thuận Chân Như
tu hành Nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh Chân Như không có tướng thân
tâm
, xa lìa giải đãi, nên tùy thuận Chân Như tu hành Tinh tấn Ba-la-mật. Vì biết
pháp tánh Chân Như vốn thường định, thể không tán loạn, nên tùy thuận Chân Như
tu hành Thiền định Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh Chân Như vốn sáng tỏ, không có
vô minh, nên tùy thuận Chân Như tu hành Trí huệ Ba-la-mật”.

Luận Khởi Tín
gồm tất cả sự huân tập hay tu hành của hành giả vào ba tâm:

Trực tâm là tâm chánh niệm Chân Như:
“Chúng sanh nào quán vô niệm thì người ấy đang hướng về trí Phật”.

Thâm tâm là tâm ưa tích tập tất cả các
thiện hạnh công đức.

– Tâm đại bi muốn cứu khổ tất cả chúng
sanh
.

Tóm lại, tất cả mọi hoàn cảnh, mọi thời khắc của cuộc sống đều là cơ hội
quý báu
để chúng ta có thể huân tập, tiếp xúctương ưng với Chân Như.

2.
Vài đặc điểm của Chân Như huân tập

Sau đây chúng ta nêu lên vài đặc điểm của Chân Như huân tập. Đó là những
đặc điểm của con đường Bô-tát:

– Một trong những từ Luận Khởi Tín dùng để chỉ thực tại tối hậu
là Niết-bàn. Nhưng trong khi Niết-bàn theo hệ Pali Nam truyền là “tịch tịnh, tịch
diệt” mang nhiều nghĩa tĩnh lặng, thụ động, thì Niết-bàn của Luận Đại thừa Khởi
Tín
hoạt động, sinh động, tích cực phi thường. Niết-bàn loại trước thì ở
trong một trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối chờ con người đạt đến, còn Niết-bàn loại
sau thì cũng đồng thời đi đến với con người. Niết-bàn của Đại thừaChân Như
thường hằng huân tập. Thế nên, thực tại tối hậu của Đại thừaChân Không Diệu
Hữu
(chữ dùng của Luận Khởi Tín
“Như Thật Không” và “Như Thật Bất Không”).

– Điều này mở ra tất cả mọi pháp môn,
như tín, hạnh, nguyện, hồi hướng…, để đạt đến Niết-bàn Chân Không Diệu Hữu.

Đối với Niết-bàn Chân Không Diệu Hữu này, phương tiện chính là cứu cánh,
chứ không phải phương tiện để đạt đến cứu cánh, đạt đến rồi thì bỏ đi. Phương
tiện
không phải để chờ đợi cứu cánh, mà cứu cánh nằm ngay nơi phương tiện. Kinh Duy Ma Cật nói: “Bản tánh của sanh
tử
tức là Niết-bàn”. Luận Khởi Tín
cũng thường nói đến Tánh, Tướng, hay Thể, Dụng của Chân Như, đi đến kết luận
chung của Đại thừa: “Sanh tử tức Niết-bàn”

– Trong sự thực hành, vì Niết-bàn là nền
tảng của tất cả các pháp, cho nên ngoài sự chánh niệm tỉnh giác trên các pháp
vô thường (như hơi thở, cảm thọ…) Đại thừa còn chánh niệm tỉnh giác trên chính
thực tại tối hậu là Niết-bàn Chân Như: “trực niệm Chân Như”.

Đại thừa không bỏ một điều gì mà con người trong sanh tử đang có để chuyển
hóa
sanh tử thành Niết-bàn. Chính vì thế mà sự thực hành của Đại thừa phong phú
vô cùng, mà nói một cách tượng trưng là tám vạn bốn ngàn pháp môn hay tám vạn bốn
ngàn con đường.

Một trong những pháp môn hay con đường ấy là lòng sùng tín (devotion).
Sùng tín đối với các bậc cao cả thiêng liêng. Sùng tín đối với tất cả, vì tất cả
đang là Chân Như nhưng bị che giấu bởi vô minh. Sùng tínđộng lực lớn đi
trên con đường: “Từ khi mới phát tâm cầu đạo cho đến thành Phật, trong khoảng
thời gian ấy, người tu nương vào chư Phật, chư Bồ-tát, hoặc thấy hình tướng các
Ngài, hoặc nghĩ đến các Ngài, đều được các Ngài gia hộ. Các Ngài hoặc hiện thân
làm cha mẹ, thân thuộc, hoặc làm thiện hữu tri thức, hoặc làm người tôi tớ hầu
hạ, hoặc làm người oan gia, hoặc dùng bốn nhiếp pháp cho đến tất cả các hành động
để trợ duyên. Nhờ sức đại bi huân tập, khiến chúng sanh tăng trưởng căn lành,
chúng sanh nếu thấy hoặc nghe đều có lợi ích”.

Sức mạnh của sự sùng tín này khiến hành giả có thể “phá vỡ hạt bụi để thấy
ra kinh điển”, như kinh Hoa Nghiêm
nói.

– Chính nhờ Chân Như bao trùm khắp mọi
ngõ ngách của cuộc đờihành giả tích tập, khai triển mọi đức tính của Bồ-tát:
tôn trọng, khoan dung, từ bi, bình đẳng, nhẫn nhục, lạc quan… Muôn hạnh muôn đức
của một bậc Giác ngộ là dụng của Chân Như. Và cũng chính Chân Như chứa giữ muôn
hạnh muôn đức ấy. Ở nơi phương diện này mà Chân Như được gọi là Như Lai Tạng.

– Với Chân Như Chân Không Diệu Hữu, thế
giới
sanh tử này là một đạo tràng rộng lớn cho hành giả, vì thế giới này là một
biểu hiện của Chân Như được nhìn theo nghiệp của chúng sanh. Chân Như vẫn đang
có đó nhưng còn ẩn giấu đối với hành giả, còn cần phải luôn luôn và mãi mãi được
khám phá.

Hành giả tu khắp nơi. Ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào, không
gian
nào, hành giả cũng có thể huân tập và bắt gặp Chân Như. Chẳng hạn cái ngộ
Thiền
tông luôn nói đến là sự tương ưng giữa huân tập Chân Như của hành giả với
Chân Như huân tập của Chân Như. Đó là sự tương ưng của Chân Như ‘bên trong’ với
Chân Như ‘bên ngoài’ , của phần tử với cái toàn thể, của thủy giácbản giác.

Nói theo những thí dụ “sóng và đại dương, bóng và gương” của Luận Khởi Tín thì thấy sóng ở đâu thì đại
dương
ở đó, thấy bóng ở đâu thì thấy gương ở đó. Như thế, thế giới này là một đạo
tràng
của Chân Như.

Đạo vốn không nhan sắc
Mỗi ngày mới mẻ
khoe
Ngoài vô biên thế
giới
Chỗ nào chẳng phải
nhà?
Thiền sư
Thường Chiếu (?-1203)
(Văn Hóa Phật Giáo số 149)