Chân Như Duyên Khởi

0
42

CHÂN NHƯ DUYÊN KHỞI
Nguyễn Thế Đăng

Phác
họa
“Chân Như duyên khởi” Chân Như duyên khởi là một
“học thuyết” có mặt trong hầu hết các tông phái Đại
thừa
như Không tông (Trung Quán, Trung Đạo), Duy Thức tông,
Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Mật tông… Sở dĩ chúng ta
dùng chữ “học thuyết”, như một lý thuyết triết học,
vì khi chỉ nghiên cứu trên bình diện tư tưởng và khái niệm
– và đó là việc chúng ta đang làm – thì nó là một học thuyết
(chân lý tương đối, tục đế). Còn ngày nào chúng ta thật
sự thể nghiệm được Chân Như thì đó không còn là một
học thuyết, một ngón tay chỉ mặt trăng, mà đó chính là
chân lý tuyệt đối, chân đế, là chính mặt trăng.

Chân
Như
(tathata) là gì? Định nghĩa tổng quát, Chân Nhưthực
tại
“bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng
bất giảm”, nghĩa là thực tại nguyên sơ và tối hậu từ
đó tất cả mọi thế giới hiện tượng sinh ra. Chỉ lấy
một số từ ngữ trong Luận Đại Thừa Khởi Tín thì Chân
Như
là: Tâm Chân Như (đối lại với tâm sinh diệt), Pháp
tánh Chân Như
, Như Lai tạng, Nhất Tâm, Thể Đại tổng tướng
của Nhất Pháp giới, tánh Không, Pháp thân, Bản giác, Cứu
cánh giác
, cái gương như hư không, tánh giác, Tâm, Pháp giới
tánh
, Phật thể…

Chúng
ta
có thể định nghĩa khái quát Chân Như duyên khởi như sau:
Tất cả những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm,
suy nghĩ (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, sắc thanh hương vị xúc
pháp) đều sinh ra, duyên khởi từ Chân Như, hiện hữu trong
Chân Như và diệt mất trong Chân Như. Nói cách khác, tất cả
mọi hiện tượngchúng ta kinh nghiệm đều là Chân Như.

Chân
Như duyên khởi
được nói rộng và sâu trong kinh Hoa Nghiêm
kinh Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba cõi chỉ là Nhất
tâm” (phẩm Thập Địa). Kinh Pháp Hoa thì hai phẩm Như Lai
thần lựcNhư Lai thọ lượng (nằm trong phần Bổn môn
theo phân tích của Đại sư Trí Khải) nói một cách trực
tiếp và sâu xa về Chân Như duyên khởi.

Kinh
Lăng Gia nói:

Như
Lai tạng
là nhân của thiện và bất thiện, từ nó tất cả
mọi hình thức đời sống được khởi sinh. Giống như một
diễn viên mặc lấy các hình tướng khác nhau, trong đó không
có cái ta và cái của ta. Do không biết điều này nên ba duyên
hòa hợp làm phương tiệnsinh khởi. Ngoại đạo không
biết nên chấp là có một tác giả, có một nguyên nhân. Vì
tập khí xấu và hư vọng đã huân tập từ vô thủy nên gọi
Tàng thức (A lại da thức), chúng chuyển biến cùng với
bảy thức và vô minh căn bản xông ướp, như một đại dương
có sóng sinh mãi chẳng dứt.

Nếu
lìa lỗi lầm do không thấy vô thường, lìa khỏi chấp ngã
thì (đại dương) Như Lai tạng không dơ uế và rốt ráo thanh
tịnh
trong bản tánh của nó.

“Đại
Bồ tát muốn tiến bộ đến rốt ráo thì phải thanh tịnh
Như Lai tạng đang còn là thức A lại da này. Nếu không
thức tàng A lại da này, ắt không có sinh diệt… Này Đại
Huệ
, cảnh giới của Như Lai tạng vốn là thanh tịnh, nhưng
người chưa giác ngộ thì bị khách trần nhiễm ô che đậy
nên vẫn thấy chẳng thanh tịnh”
. (quyển 8).

Kinh
Thắng Man nói:

Sanh
tử
y trên Như Lai tạng… Có Như Lai tạng cho nên có sinh tử,
đó gọi là người trí nói. Sinh và tử, hai pháp này tức
Như Lai tạng. Do lời nói thế gian nên nói có sinh tử,
chứ chẳng phải Như Lai tạng có sinh có tử. Như Lai tạng
vốn lìa ngoài tướng hữu vi. Như Lai tạng vốn thường trụ,
bất biến, cho nên Như Lai tạng là nền tảng y cứ, là cái
duy trì, là cái kiến lập
”(Phẩm Tự Tánh thanh tịnh).

Tất
cả tướng đều là tánh, tất cả sóng đều là đại dương
thanh tịnh bất động, tất cả hiện hữu đều là Như Lai
tạng
. Kinh Đại Bát Nhã, phẩm Đẳng Học nói: “Tất cả
pháp bổn tánh thanh tịnh. Ở trong các pháp đó, nếu Bồ tát
tâm thông đạt chẳng mê mờ, đó chính là Trí huệ Ba la mật”.

Kinh
Lăng Nghiêm
, quyển IV, nói:

Như
Lai tạng
không phải là tâm, không phải là đất nước lửa
gió, không phải là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, không phải
sắc thanh hương vị xúc pháp, không phải nhãn thức giới
cho đến không phải ý thức giới, không phải là minh hay
minh
, không phải hết minh hay hết vô minh. Như vậy cho đến
không phải là lão tử, không phải hết lão tử, không phải
khổ tập diệt đạo, không phải trí, không phải đắc,
không phải là bố thí trì giới nhẫn nhục thiền định trí
tuệ
, không phải là Ba la mật đa, như vậy cho đến không
phải là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, không phải Đại
Niết bàn
, không phải Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả đều
chẳng phải, chẳng phải là pháp thế gian hay xuất thế gian
“.

“Như
Lai tạng tức là tâm, tức là Không, tức là đất nước lửa
gió, tức là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, tức là sắc
thanh
hương vị xúc pháp, tức là nhãn giới cho đến
tức là ý thức giới, tức là minh tức là vô minh, tức là
minh và vô minh tận. Như thế cho đến tức là lão tử, tức
lão tử tận, tức là Khổ Tập Diệt Đạo, tức là Trí,
tức là Đắc, tức là bố thí trì giới nhẫn nhục thiền
định
trí tuệ, tức là Ba la mật đa, như thế cho đến tức
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, tức là Đại Niết bàn,
tức là Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả đều tức là, tức
là pháp thế gianxuất thế gian.

Như
Lai tạng
lìa ‘tức là’, lìa ‘chẳng phải’, cũng ‘tức
là’, cũng ‘chẳng phải’.

Tóm
lại
, Chân Như duyên khởi hay Như Lai tạng duyên khởi hay Pháp
giới duyên khởi
Chân Không Diệu Hữu. Hay nói theo thuật
ngữ
của Luận Đại Thừa Khởi Tín, Chân Như duyên khởi
Không Như Lai tạng (Chân không) và Bất Không Như Lai tạng
(Diệu hữu).

Nói
theo ngôn ngữ bình thường thì Chân Như là cái dung chứa mọi
mâu thuẫn, đối nghịch: có và không, động và tĩnh, một
và nhiều, như thậtnhư huyễn, tướng và vô tướng…
đồng thời vẫn thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi chúng.


điều Chân Như duyên khởi hay Chân Không Diệu Hữu phải được
thực hành để thể nghiệm. Nếu không, nó chỉ là một thứ
triết học tư biện bàn luận suông thay vì là một ngón tay
chỉ mặt trăng, một dấu hiệu chỉ đường nhằm đạt đến
thực tại tối hậu. Nếu chỉ là một loại triết học, nghĩa
dựa trên và làm việc với những khái niệm, thì với
Phật giáo, nó không tránh khỏi rơi vào hý luận, rơi vào
vòng lẩn quẩn của ý thức hữu hạn và sinh diệt. Kinh Lăng
Già
nói: “Cái sinh diệt kia là thức, cái chẳng sinh diệt
là trí. Cái bị các tướng ràng buộc ngăn ngại là thức.
Cái không bị ràng buộc ngăn ngại là trí… Đại Huệ! Ta
nói rằng thức vọng tưởng diệt thì gọi là Niết bàn”
(Niết bàn là một tên gọi khác của Chân Như).

Đưa
vào trong đời sống thực tế

Chân
Như
là tất cả đời sống, vậy thì ứng dụng của Chân
Như duyên khởi
có mặt trong mọi lãnh vực của đời sống.
Ở đây chúng ta chỉ nhìn sơ lược trong vài lãnh vực.

Mặc
con đường của con người là để đạt đến chân lý
tuyệt đối, đạt đến trí chẳng sinh chẳng diệt, nhưng
ở bước khởi đầu và trên đường đi, chúng ta vẫn cần
sử dụng cái thức sinh diệt nghĩa là chân lý tương đối.
Nói cách khác, chúng ta chưa chứng thực được Chân Như duyên
khởi
thì chúng ta hãy sống với nó trên bình diện ý thức,
bình diện tư tưởng, bình diện con đường đang đi nhưng
định hướng đúng. Nhân là một ý thức tương đối nhưng
tiến hành đúng, thì quả sẽ là một trí huệ chẳng sinh
chẳng diệt thấu đạt Chân Như.

Chúng
ta
hãy xét Chân Như duyên khởi trong so sánh với một vài triết
học
khác để thấy sự ích lợi có tính thực dụng của
trong đời sống. Thực dụng ở đây là hiểu theo nghĩa
cao cấp và đẹp đẽ của từ này. Triết học thực dụng
hay triết học thực tiễn do Charles S.Peirce (1839-1914), William
James (1840-1910) và John Dewey (1850-1954), cả ba đều là người
Mỹ chủ xướng và khai triển. Triết học thực dụng khi xét
giá trị của một loại triết học thì dựa trên kết quả
thực tiễn tác động vào đời sống của nó. Chẳng hạn,
tiểu luận Khái niệm triết họchiệu quả thực tế (1898)
của James là một thí dụ.


đây, chúng ta sẽ xét hiệu quả của học thuyết Chân Như
duyên khởi
trong ba chủ đề: Thời gianlịch sử; Sự vật,
thiên nhiêncon người; Các ngành nghiên cứu học thuật.

-Thời
gian và lịch sử: Với Chân Như duyên khởi, vũ trụ này duyên
khởi
từ Chân Như theo nghiệp của tất cả chúng sinh, sinh
từ Chân Như, kiến lậphiện hữu trong/bằng Chân Như,
diệt mất trong Chân Như. Vũ trụ chính là biến tướng của
Chân Như theo nghiệp của từng giống loài. Vũ trụ của con
người
Chân Như được biến hiện qua nghiệp thân khẩu
ý
của con người.

Chân
Như
, với tư cáchthực tại đầu tiên và cuối cùng, vừa
siêu việt khỏi vũ trụ vừa nội tại trong vũ trụ. Nói theo
cách nói logic bất nhị của Đại thừa, siêu việt tính của
Chân Như chính là nội tại tính của nó.

Như
thế, vũ trụthế giới này, dù bị “biến kế sở chấp”
cách nào vẫn ẩn chứa “khuôn mặt thật” của con người,
vẫn là quê hương đích thực của con người. Chính nơi sự
biểu lộ thành hình tướng vũ trụ của Chân Nhưcon người
trong sự phát triển tiến hóa của nó có thể nhận ra Chân
Như
vào bất cứ không gian nào thời gian nào. Chính nơi thế
giới
đa dạng này con người sẽ nhìn thấy khuôn mặt thật
của mọi sự là Chân Như. Con người không lạc lõng trong
một vũ trụ vô tri giác, xa lạ, không có chút gì thiêng liêng.
Trái lại, nó lạc lõng bởi vì nó không nhận ra khuôn mặt
thật và thiêng liêng (siêu việt) của nó và của thế giới
là gì. Nó chưa từng lìa khỏi quê hương cõi tịnh của nó.
Sự cứu độ, sự giải thoát luôn luôn ở trong tầm tay nó,
hay nói đúng hơn, nằm trong chính nó, khi nó tịnh hóa con mắt
nó, khi chuyển được thức thành trí, chuyển được cái thấy
sinh tử sinh diệt thành cái thấy Niết bàn Chân Như không
sinh
không diệt.

Thế
nên, với Phật giáo, thực tại tối hậu là cái có mặt ở
tại đây và bây giờ. Tất cả mọi con đường, mọi pháp
môn
của Phật giáo, dù bề ngoài có vẻ khác nhau thế nào,
đều quy về cái có mặt tại đây và bây giờ này.

Trong
khi đó, thần học Tây phương quan niệm thực tại tối hậu
là một Thượng đế có nhân cách như con ngườivũ trụ
được Thượng đế tạo ra từ hư không, ex nihilo. Thượng
đế
như là nguyên nhân đầu tiên, động cơ đầu tiên tạo
ra vũ trụ, nhưng Thượng đế ở ngoài vũ trụ, không ở trong
vũ trụ. Với con người cũng thế, Thượng đế tạo ra con
người
, dù có “theo hình ảnh của Ngài”, nhưng ở ngoài
con người. Vũ trụcon người ở ngoài Thượng đế, thế
nên để đến với thực tại tối hậuThượng đế, con
người
phải đi qua một vũ trụ vô tri vô giác xa lạ và đi
qua cả số phận của chính con người cũng xa lạ không kém.
Con người cũng không thể bằng nỗ lực của mình để gặp
gỡ thực tại tối hậu, mà mọi sự đều do “ý muốn của
Thượng đế”. Những câu hỏi tiếp tục gây lúng túng cho
các nhà thần học: Nếu Thượng đế tốt lành sáng tạo ra
vũ trụ, tại sao có sự xấu ác trong vũ trụ ấy?…

Lịch
sử
theo quan niệm Tây phươngtính cách tuyến tính mà phải
ở cuối đường của lịch sử nhân loại mới gặp lại Thượng
đế
trong sự phán xét cuối cùng, đó cũng là ngày tận thế.
Như thế lịch sử chỉ là một sự chờ đợi sự chấm dứt
của chính mình để được tái lập lại trong “trời mới
và đất mới” với những con người còn sống sót vì “đã
được chọn lựa”. Lịch sửlịch sử của sự vắng
bóng
thực tại tối hậu, vì thực tại tối hậu thì ở ngoài
lịch sử, ở ngoài số phận con người.

Quan
niệm
lịch sử tuyến tính này ảnh hưởng đến những triết
gia
lớn như Hégel (1770-1831). Với Hegel, mặc dù Tinh Thần thế
giới
nội tại trong thế giới, nhưng con người không thể
trực tiếp đạt đến Tinh Thần thế giới (cái tuyệt đối)
mà phải chờ “Tinh Thần thế giới” thực hiện quá trình vận
động
biện chứng của mình qua vũ trụ để đi tới sự hoàn
thiện
cuối cùng của “Tinh Thần thế giới” đó, thì lúc ấy
con người mới được hoàn thiện.

Sự
tách biệt của thế giới, lịch sửcon người với thực
tại
tối hậu là cái tạo ra bi kịch Tây phương. Thế kỷ
XIX, Nietzsche nói: Thượng đế đã chết. Nếu Thượng đế
ở ngoài con ngườivũ trụ thì Thượng đế có thể chết
thật. Nhưng Thượng đế ở trong con người (Tất cả chúng
sinh
đều có Phật tánh) và ở trong vũ trụ thì Thượng đế
làm sao chết được khi còn có con người. Những tác phẩm
trong thế kỷ XX, mà đầu đề đã nói lên bi kịch đứt rách
giữa Thượng đếcon người trong vũ trụ: Đi tìm thời
gian
đã mất (Marcel Proust), Lưu đàyQuê nhà, Con người
nổi loạn, Kẻ xa lạ, Huyền thoại Sisyphe (Albert Camus), Trong
khi chờ Thượng đế (Samuel Beckett), Thời đại hoài nghi (Nathalie
Sarraute)…

Lịch
sử
Tây phương là một lịch sử theo đường thẳng, tuyến
tính, có tính cách mạt thế luận, và lịch sử ấy không
thực tại tối hậu ở bên trong nó. Nó chỉ gặp lại
cái thực tại tối hậu ấy ở cuối đường, nghĩa là khi
lịch sử đã chấm dứt. Đó là một lịch sử đi tìm thực
tại
tối hậu ở cuối đường nhưng tự thân lịch sử thì
không có thực tại tối hậu ấy: lịch sử thì vô nghĩa.

Nhận
định
của J.P. Sartre nêu lên tình cảnh ấy thật rõ ràng:
“Hầu hết các nhà văn lớn hiện đại, Proust, Joyce, Dos Passos,
Faulkner… mỗi người theo cách riêng của mình, đều cố tìm
cách
hủy hoại thời gian. Một số tước đi quá khứ và tương
lai, để rút thời gian lại trong ý thức thuần túy của giây
lát. Chưa bao giờ rõ như thế ở thế kỷ XX, những đột
biến
và sụp đổ nhanh chóng của tiến trình lịch sử lại
khiến con người nhận rõ như vậy về “tính phi lý của
thời gian”, “sự thiếu vắng của tương lai”. Vì vậy,
khi “một ký ức chỉ còn làm ngưng lại những ngẫu nhiên
và những vòng quay lại vĩnh cửu của một cuộc đời trong
một thời điểm duy nhất”, thì điều đó không có gì lạ,
bởi vì, “giây lát, đó chính là sự bao trùm tương hỗ và
đối lập của cái trước bởi cái sau”. Sartre, Saint Genêt,
Comédien et martyr, 1952, trích dẫn từ Lịch sử văn học Pháp
thế kỷ XX, Đặng Thị Hạnh chủ biên, NXB Đại học Quốc
Gia
Hà Nội 2005.

Lịch
sử
Tây phươnglịch sử của loài người bị đuổi khỏi
vườn Địa Đàng, một cuộc lưu đày vào trần thế không
có cơ hội để tự phục hồi. Đó là lịch sử của một
cuộc mất mát thực tại tối hậu mà chỉ có cái chết của
chính lịch sử mới cứu chuộc được.

Ẩn
dụ
“Đứa con hoang đàng trở về với cha” trong Kinh Thánh
ẩn dụ “Đứa con khốn cùng trở về với cha” trong
kinh Pháp Hoa khá giống nhau trong việc nói lên thân phận con
người
. Nhưng rất khác nhau về cách giải quyết, nhìn trong
toàn cảnh hai nền văn hóa.

Lịch
sử
, theo Đông phương, nhất là theo Phật giáo, luôn luôn là
cơ hội cho con người, chính là sự cứu độ cho con người,
bởi vì lịch sử là sự khai triển của Chân Như theo khuynh
hướng nghiệp của con người. Lịch sử không là sự che giấu
hay ẩn mặt. Khi được hỏi thế nào là thực tại tối hậu,
Thiền sư Vô Ngôn Thông, sơ Tổ của một dòng thiền Việt
Nam
, trả lời: “Không từng che giấu”, và “Ở khắp mọi
chỗ”.

Con
người
luôn luôn có cơ hội gặp gỡ, tìm thấy thực tại
tối hậu ở bất cứ thời điểm nào của thời giankhông
gian
, nghĩa là ở bất cứ thời gian không gian nào của lịch
sử
. Tất cả mọi tông phái Phật giáo đều đồng ý con người
có thể gặp gỡ, hiểu biết, tỏ ngộ, thể nhập thực tại
tối hậu ấy ngay tại đây và bây giờ. Với Phật giáo, thời
gian
không gian không chỉ là tương đối mà thậm chí là không
thực, do đó mới có giải thoát được. Tâm điểm, cứu cánh
của lịch sử Tây phương là ở phía trước, ở chỗ tận
cùng (téléologie, viễn đích luận hay cứu cánh luận). Tâm
điểm, cứu cánh của lịch sử Đông phương là ở tại đây
và bây giờ. Chỉ cần tâm con người đủ sáng suốt, đủ
trong sạch để biết thấy, biết nghe, biết ngửi, biết nếm,
biết xúc chạm và biết suy nghĩ.

Sự
vật, thiên nhiêncon người

Nghiệp
chướng
hay lỗi lầm của con người là sự phân biệt
tách lìa giữa chủ thể và khách thể, kể cả khách thể
siêu việtthực tại tối hậu. Một trong những vấn đề
giải quyết của kinh Lăng Nghiêm là tại sao có thân tâm này
thế giới ngoài kia, làm sao để lấp được hố ngăn cách
ấy. Có lẽ đó là sự khổ đau đầu tiên và căn bản của
mọi thứ khổ đau của con người.

Văn
hóa
Tây phương khởi nguồn từ Hy Lạp và kinh Cựu Ước.
Sách Sáng Thế Ký nói: “Đức Chúa Trời ban phước cho loài
người
và phán rằng: Hãy sinh sản thêm nhiều, làm cho đầy
dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy thống trị loài
cá biển, loài chim trời, tất cả mọi sinh vật trên mặt
đất” (Sáng Thế Ky 1, 28).

Khi
Adam và Eva đã phạm tội vì ăn trái cấm “biết điều thiện
và điều ác”, “Đức Chúa Trời phán cùng người nữ rằng:
Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén;
ngươi sẽ chịu đau đớn khi sinh con, sự dục vọng ngươi
phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”.
(3, 16). Rồi phán với Adam: “Đất sẽ sinh chông gai và cây
tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ
làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày ngươi
trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi đất
ngươi sẽ trở về bụi đất” (3, 18, 19).

Thiên
nhiên
với Cựu Ước luôn luôn là cái gì gây khổ đau cho
con người. Và chống đối, chiến thắng thiên nhiên hẳn là
chống đối và chiến thắng khổ đau. Tương quan giữa con
người
thiên nhiên là một tương quan bạo động, thù địch
và chiến đấu. Thiên nhiên là một lời nguyền rủa cho số
phận con người.

Ngày
nay với khoa học kỹ thuật, con người đã giải được lời
nguyền đó, nhưng cùng với điều này, thiên nhiên hấp hối,
trái đất hấp hối. Chúng ta đang mất một người bạn đồng
hành
, thậm chí người anh cảthiên nhiên có trước chúng
ta
, và cái chết của trái đất cũng là cái chết của chúng
ta
.

Từ
hai nguồn Hy Lạp và Cựu Ước cho đến Descartes và các triết
gia
hiện đại vẫn chưa giải quyết được sự tách biệt
giữa chủ thể và đối tượng. Khoa học kỹ thuật lại đào
sâu
thêm hố tách biệt ấy bằng cách làm ông chủ khai thác
bóc lột thiên nhiên để thỏa mãn những tham vọng không bờ
bến. Đẩy sự sống của thiên nhiên vào hàng vật chất
tri
, hiếu chiến với thiên nhiên, từ đó hiếu chiến với
con người, với người khác, chỉ là một bước ngắn. Đó
tính cách của văn hóa Tây phương. Đông phương thì ngược
lại, luôn luôn tìm cách hòa hoãn, thuận hòa với thiên nhiên.
Chỉ mới khoảng vài thập niên gần đây, trước nguy cơ trái
đất bị kiệt quệ và hư hoại, kéo theo cái chết sắp tới
của con người, Tây phương mới nói đến môi trường sinh
thái, thiên nhiên, sống hài hòa với thiên nhiên.

Lịch
sử
con người, theo Tây phương, là lịch sử của con người
bị đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng, và người ta đi tìm
thiên đường đã mất ấy bằng cách đào xới, chế tạo,
xây dựng nên một Thiên Đường vật chất mới bằng nguyên
liệu của trái đất này. Trong khi đó, Chúa Jésus đã nói:
“Thiên Đường chỉ có trong lòng người”.

Ảo
tưởng
lớn nhất của văn minh Tây phương là nghĩ rằng con
người
sẽ có hạnh phúc, sẽ bình an, sẽ xây dựng được
một cơ đồ hạnh phúcbình an bằng cách chẳng đếm xỉa
thiên nhiên, chẳng đếm xỉacon người (bóc lột
chiến tranh, chủ nghĩa thực dân các loại…), và quan trọng
nhất là chẳng đếm xỉa gì đến con người thật bên trong
của mình. Ảo tưởng có thể đi tìm một Thiên Đường bên
ngoài mình, một Thiên Đường có thể xây dựng được bằng
cách thống trị thiên nhiên, thống trị người khác và che
lấp
con người sâu xa bên trong của mình, ảo tưởng đó càng
lúc càng cho thấy những hậu quả nhãn tiền của nó. Cần
nhấn mạnh, chúng ta nói, không nên tiến bộ bằng ảo tưởng,
bằng cách đặt những tiền đề sai, chứ không nói, không
nên tiến bộ về vật chất.

Trong
khi đó, Đông phương nói: “Tâm bình thì thế giới bình”,
“Tâm dẫn đầu tất cả các pháp”. Diễn dịch theo lối
tầm thường của chúng ta: Nếu tâm mà đúng, tốt và đẹp
thì mọi sự, thế giới tự nhiênthế giới do chúng ta
tạo ra, sẽ đúng, tốt và đẹp. Dĩ nhiên hậu quả là không
có khổ đau. Chẳng có ai tạo ra tội lỗi nguyên thủy – như
Adam và Eva – cho chúng ta cả. Chúng ta phải chịu trách nhiệm
với sự sai lầm vẫn đang diễn ra của chính mình. Đó là
cái nhìn sai lầm và hành động sai lầm của chúng ta ngay lúc
này về thiên nhiên, về con người, và về thực tại tối
hậu
.

Với
Đông phương mà nòng cốt ‘triết học’ của nó là Chân Như
duyên khởi
, thì thiên nhiên và người khác không phải là
đối tượng, đối thủ để hàng phục, gây chiến và thống
trị
trên con đường tiến hóa của mình. Mỗi sự vật trong
thiên nhiên là một Chân Như duyên khởi. Mỗi con người
một Chân Như duyên khởi. Chúng ta, thiên nhiên và người khác
đồng một tánh Không, đồng tánh Chân Như. Nếu có khác biệt
về cấp độ thì đó là sự khác biệt do cấp độ nhận
biết
nhiều hay ít, có ý thức hay vô thức bản năng về tính
chất
đồng nhất này mà thôi. Đây mới là cái biết đem
lại bình anhạnh phúc cho mọi loài hiện hữu.

Nếu
chúng ta thể nghiệm được sự bình đẳng tự bản chất
này (Bình đẳng tánh trí), thì đó là hạnh phúc, hạnh phúc
cứu cánh, vì chấm dứt mọi xung đột, tham lam, giận ghét,
chiến tranh.

Phật
giáo
bao gồm nhiều con đường, nhiều lối đi nhằm chấm
dứt
vô minh (cái thấy chia tách và cắt đứt chủ thể và
khách thể, từ đây mà có căn bệnh cô đơn của thời hiện
đại
). Khi vô minh tiêu tan tới đâu thì thực tại Chân Như
hiển lộ tới đó. Vô minhảo tưởng thâm căn cố đế
cho rằng có những vực thẳm tách biệt chúng ta với thiên
nhiên
, với người khác và với thực tại tối hậu. Tách
biệt với thiên nhiên, với người khác, với thực tại tối
hậu
cũng chính là tách biệt với chính mình. Sự tha hóa của
chúng ta vẫn tiếp diễn, khổ đau của chúng ta vẫn tiếp
diễn
. Hai thái độ căn bản gây tác hại cho chính chúng ta
tham lam và giận ghét – tham không được thì giận ghét
– đều sinh ra từ sự tách biệt này. Những vực thẳm tách
biệt làm cội gốc cho mọi khổ đau này, như ta đã biết,
mọi khoa học, mọi kỹ thuật, triết học, văn học, chính
trị, kinh tế và tổ chức xã hội đều bất lực trong việc
lấp đầy, xóa tan chúng, nếu không nói là càng đào sâu rộng
thêm, khi không có chánh kiến. Chính vì thế mà bất chấp
bao nhiêu phát triển trong mọi lĩnh vực, Phật giáo vẫn tồn
tại
như một phương thuốc chữa mọi căn bệnh. Trong văn
học
Phật giáo vẫn tuyên xưng Đức Phật là bậc “Đại
y vương” là vì thế.

Bằng
Chân Như duyên khởi, chúng ta trả lại tính thiêng liêng (Chân
Như
), tính siêu việt, tính bất khả tư nghì cho thế giới,
thiên nhiêncon người, trong đó có chúng ta. Thấy mọi
cái đều thiêng liêng trong Chân Như có nghĩa là chúng ta đã
thiêng liêng hóa cuộc đời của mình, trả cho chúng ta về
với chính chúng ta, một cái chính mình thiêng liêngsiêu
việt
. Ẩn dụ viên đá triết học (của Tây phương) và cây
gậy (của Đông phương) biến tất cả vũ trụ thành vàng
ròng
ý nghĩa như vậy.

Để
kết
thúc
đoạn này chúng ta trích hai câu kệ của Thiền sư Thiền
Lão
(thế kỷ XI) trả lời vua Lý Thái Tông:

Trúc
biếc hoa vàng phi ngoại cảnh


Trăng
trong mây bạc hiện toàn chân.

Đây
là cái thấy của những con người thực sự thấy biết (Chánh
tri kiến). Như Thiền sư Mã Tổ: “Nếu lập pháp giới thì
thảy đều là pháp giới. Nếu lập Chân Như thì thảy đều
là Chân Như”. Hay như Thiền sư Hoàng Bá: “Tánh tướng không
khác nhau” ; “Tâm cảnh nhất như”.

Thấy
được như thế thì làm gì có chuyện trái đất này bị hư
hoại, bị tàn phá vì lòng tham? Làm gì có chuyện đồ vật
càng ngày càng chết đi nhanh hơn vì chủ nghĩa tiêu thụ?

Các
ngành học của con người

Khi
nói Chân Nhưthật tướngthật tánh của tất cả mọi
hiện tượng, chúng ta thấy ngay rằng Chân Nhưmục đích
của mọi môn học, mọi ngành nghiên cứu, tìm tòi, vì tất
cả mọi ngành đều nhắm đến thể, tướng, dụng của một
đối tượng nghiên cứu nào đó.

Với
Phật giáo, mọi ngành học thuật nghiên cứu đều nằm trong
vòng
chân lý tương đối vì chúng y cứ vào lý tính hữu hạn
của con người. Chẳng hạn theo Kant, lý tính không thể thấu
hiểu được, nắm bắt được “vật tự nó”, nghĩa là
thực tại tối hậu, thực tại như chính nó. Lý tính chỉ
hiểu được thế giới hiện tượng (phénomène) còn cái bản
thể
(noumène) thì không thể. Sau này, với Sartre, hữu thể
tự thân, hữu thể tự nó (l’en-soi) cũng là sự bất lực
lớn nhất của ý thức con người (le pour-soi). Các nhà triết
học
về khoa học như Wittgeinstein, Thomas Kuhn, Karl Popper… đã
cho chúng ta thấy những giới hạn của khoa học, nghĩa là
giới hạn của lý tính. Trên thực tế việc không thể hợp
nhất thuyết tương đốivật lý lượng tử dù chỉ trên
phương diện lý thuyết toán học trải qua gần một thế kỷ
đã cho thấy điều đó.

Chỉ
có ở cấp độ vượt khỏi lý tính, ở cấp độ mà chúng
ta
thường gọi là tâm linh hay trí huệ thì tâm thức mới
bắt đầu chứng nghiệm được chân lý tuyệt đối (thật
tánh
thật tướng). Nói vượt khỏi lý tính, nói là tâm
linh
vì không thể định lượng và định tính theo khoa học,
theo luận lý được. Chỉ có cấp độ tâm linh hay trí huệ
mới nhận biết và thấu hiểu tâm linh hay trí huệ. Bởi thế
những người thực hành tâm linh và có những kết quả tâm
linh
trong văn hóa Tây phương vẫn gọi là những nhà thần
(mystique). Chẳng hạn, năng lực của “giới” và cái chúng
ta
gọi là “giới thể” (và thiền định, thiền quán, bồ
đề tâm
, hồi hướng…) thì không thể đo bằng máy móc hay
quan sát nào được. Thậm chí tâm lý học chiều sâu (phân
tâm học) cũng chẳng thể nào mò ra “một tâm thức sạch
phiền não” là như thế nào, vì phân tâm học chỉ khảo
sát về tâm – mà lại là tâm thô – thì làm sao có thể biết
trạng thái không có tâm (vô tâm) là thế nào. Với tâm không
phiền não, tâm khôngtư tưởng (tâm vô niệm), phân
tâm học đã mất đối tượng khảo sát của nó, nghĩa là
nó trở nên vô hiệu.


tưởng
của Phật giáo cũng như của Đông phươngTây phương
chân lý tương đối, quy ước có thể tiếp cận và phản
ánh một phần nào chân lý tuyệt đối, tối hậu. Sự nối
kết được chân lý tương đốichân lý tuyệt đối, sự
nối kết được Đời và Đạo là mục tiêu của Phật giáo
Đại thừa. Và nhìn chung, đó cũng là con đường giải thoát
giác ngộ của toàn bộ Phật giáo.

Hiện
nay, lý tưởng của mỗi môn họcthể hiện được,
phản ảnh được một góc nhỏ của bức ảnh toàn đồ (hologramme,
bức ảnh chụp giao thoa bằng tia laser, mỗi phần nhỏ của
nó khi rọi ra đều cho hình ảnh của toàn bộ bức ảnh) của
toàn bộ vũ trụ. Nhà vật lý vĩ đại Einstein đã từng mơ
ước một tương quan như vậy giữa khoa học và Phật giáo:
“Tôn giáo của tương lai phải là một tôn giáo vũ trụ.
Tôn giáo đó phải vượt khỏi một Thượng đế có nhân cách
tránh khỏi những giáo điềuthần học. Bao trùm cả
lĩnh vực tự nhiêntâm linh, nó phải đặt nền trên một
cảm thức tôn giáo phát sinh từ kinh nghiệm về tự nhiên
và về tâm linh như một nhất thể đầy ý nghĩa. Đạo Phật
trả lời được cho sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo
nào có thể đương đầu được với những nhu cầu của khoa
học hiện đại thì đó sẽ là đạo Phật”.

Mối
liên hệ lý tưởng của các khoa học với nhau và với cái
“tôn giáo vũ trụ” này là mỗi phần tử (mỗi môn học)
đều “vô ngại, tương dung tương nhập” với nhau và “vô
ngại, tương dung tương nhập” với tôn giáo vũ trụ. Cái
nhìn “vô ngại của mọi phần tử với nhau đồng thời
ngại
với cái Toàn thể”, đó là cái nhìn, quan điểm
cũng là chỗ rốt ráo của kinh Hoa Nghiêm.

Với
Đông Á, các học thuật hầu như gắn liền và quy chiếu về
thực tại tối hậu (theo quan niệm của họ). Chẳng hạn hầu
hết mọi ngành học đều có chữ đạo (y đạo, võ đạo,
họa đạo, nhân đạo, thiên đạo, địa đạo…) và quy chiếu
về Thái cực hay Đạo. Các nhà Lý học Trung Hoa thế kỷ XI
và XII cũng biện luận về cái lý (cái Đạo) trong sự vật
và cuộc sống. Tiếc rằng họ nhiều tư biện, nhưng thiếu
những tiến bộ của khoa học và thiếu một trí huệ bao quát
như Phật giáo. Gần đây, trong đường hướng đó, nhà vật
lý thuyết Fritjof Capra viết cuốn Đạo của Vật ly, The
Tao of Physics (1974) nói về những tương đồng của vật lý
học hiện đạiĐạo học Đông phương.

Với
Tây phương, các môn học phần nhiều gắn với tiếp vĩ ngữ
“logie”: ontologie (hữu thể học), phénoménologie (hiện tượng
luận
), sociologie (xã hội học), psychologie (tâm lý học)…
Tiếp vĩ ngữ logie này bắt nguồn từ chữ Logos của Hy Lạp,
có nghĩa là Nguyên lý vũ trụ, nói theo Đông Á là Đạo, và
nâng cao lên nữa là Chân Như. Như thế, sociologie có thể dịch
là “đạo của xã hội”, psychologie là “đạo của tâm
lý”…

Cái
học của Đông và Tây đều muốn tìm đến thực tại tối
hậu
là Đạo hoặc Logos. Sự đồng quy về Chân Như, như là
thực tại tối hậu, là cái chung cho cả hai nền văn minh Đông
phương
Tây phương. Chẳng hạn, nghệ thuật Phật giáo
tìm cách biểu hiện cái Chân Như trên mặt hình tướng. Nghệ
thuật của Đông phươngTây phương cũng tìm cách biểu
hiện cái thực tại tối hậu ấy theo phong cách của từng
nền văn minh, từng dân tộc.

Kết
luận

Trong
một viễn cảnh như vậy, các khoa học (chân lý tương đối,
tục đế) và Chân Như duyên khởi (chân lý tuyệt đối, chân
đế
) không chướng ngại nhau mà bổ túc cho nhau, soi sáng lẫn
nhau. Chẳng hạn trong vật lý học hiện đại, không có một
hạt cơ bản nào, không có một hệ thống nào là độc lập,
tồn tại riêng biệt, mà chúng “tương tác” lẫn nhau, cùng
“duyên khởi” với nhau, thậm chí “vô ngại, tương dung
tương nhập” với nhau.

Cho
nên Phật giáo không chống đối khoa học, không ngăn ngại
khoa học, với tư cách là cái học, sự nghiên cứu của
trí
con người. Trái lại, một điều dễ thấy là mọi khoa
học càng phát triển sâu rộng bằng lý tríthiện tâm
thì những chân lý của Phật giáo càng được sáng tỏ. Và
có thể, như mong ước của Einstein, những chân lý tuyệt đối
của Phật giáo soi sáng cho những con đường của những chân
lý tương đối
, cho những paradigm (hệ hình, mẫu hình, chữ
của Thomas Kuhn, 1962) của khoa học. Cho đến lúc những chân
lý tương đối
là sự phản ánh của chân lý tuyệt đối,
là một với chân lý tuyệt đối: “Sắc tức thị Không…”.

Con
người
luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, hạnh phúc càng trường
cửu
càng tốt. Nhưng nó vẫn chạm mặt với khổ đau vì nó
đã không biết thiết lập những nguyên nhân cho hạnh phúc,
mà ngược lại, luôn mãi gieo trồng hạt giống khổ đau. Những
khổ đau, những ách nạn từ cá nhân cho đến xã hội
khắp thế giới chứng tỏ sự sai lầm trong tư duy và trong
hành động của chúng ta là thế nào.


ước ngàn đời của con người là làm thế nào nối kết
được cuộc đời mình với thực tại tối hậu, với cái
tuyệt đối; nối kết được sự nghiệp của mình nghĩa là
tư duy sáng tạo và hành động của mình với thực tại tối
hậu
. Làm sao nối kết được Đời với Đạo, đó là vấn
đề
, thậm chí vấn đề duy nhất. Ở đây, vắn tắt qua vài
điều ở trên, chúng ta thấy Chân Như duyên khởi thực hiện
được ước mong đó: Đạo đến với Đời. Đời nối kết
với Đạo, qua Con người.

Con
người
có thể tìm hiểu, học hỏi, bắt chước (chữ “pháp”
của Lão Tử, trong câu: “Người bắt chước Đất, Đất
bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước
Tự nhiên”) Chân Như qua mọi biểu lộ của nó: trong mọi
ngành hoạt động của con người, khoa học, chính trị, kinh
tế, xã hội v.v… Vì bằng con mắt trong sạch, con người
có thể thấy được phản ánh của Chân Như trong thế giới
hình tướng, cho đến thấy trực tiếp được nó. Như kinh
Bát Nhã nói thấy sắc (hiện tượng) tức là thấy tánh Không
(bản thể). Đó là cái gọi là sự học (suốt đời) của
Đông phương.

Với
sự học Chân Như cả về mặt hình tướng lẫn thể tánh,
mặt hiện tượng lẫn bản thể như vậy, con người sẽ hiểu
biết
, tương ưngthể nhập Chân Như. Đây là sứ mạng
thiêng liêng của con người, số phận thiêng liêng của con
người
, nối kết được Đời với Đạo, thế giới hình
tướng
biểu lộ với thể tánh không hình tướng không biểu
lộ
, nối kết sinh tử với Niết bàn, nối kết ngọn với
gốc, nối kết sự ra đi với trở về, nối kết thời gian
với cái không có thời gian, cái hữu hạn với cái vô hạn.

Qua
vài điều ở trên, chúng ta thấy sự kiến lập một nền
văn minh Phật giáo là có thể.

Nguyễn
Thế Đăng