Căn Nghiệp Của Con Người

0
29

CĂN NGHIỆP CỦA CON NGƯỜI
Lê Sỹ Minh Tùng

 

boston-marathon-explosion-012-contentboston-marathon-explosion-012-contentMới
đây
nhất, ngày thứ hai 15 tháng 4 năm 2012, có vụ khủng bố nổ bom tại cuộc chay đua ở Boston
(Boston Marathon) đã gây thiệt mạng cho 3 người và gây thương tích gần ba trăm người khác (282). Rất nhiều người trong
số bị thương đó đã bị cưa một chân hoặc hai chân. Đặc biệt ngày 25-4-2013 đài CNN đã giới thiệu một nạn nhân là cô
Heather Abbot, 35 tuổi, một cư dân của tiểu bang Rhode
Island,
bị cưa mất mộtchân. Lý do cô đến thăm Boston là để xem
trận đấu Baseball của đội Red Sox Boston ngày hôm đó. Nhân tiện cô đi xem cuộc
chạy bộ. Trong số 3 người chết có cô Lü Lingzi, 23 tuổi
là sinh viên của Boston University đến từ Trung Hoa.

cannghiepcuaconnguoi_002cannghiepcuaconnguoi_002Tuy nhiên, ông Joe Berti, 43 tuổi), là trường hợp ngoại lệ đã
thoát khỏi hai vụ nổ bom ở Boston và hai ngày sau đó ở Waco, Texas. Ông là một
trong tám người từ Austin (Texas) đến Boston chạy đua để gây quỷ cho hội từ thiện
“Champions4Children” với mục đích cứu giúp những trẻ em bị bệnh hiểm nghèo
gia đình họ. Chỉ vài giây sau khi ông đến điểm cuối (finish line) thì ông nghe
tiếng nổ kinh hoàng. Bà Amy Berti, vợ ông ta, chờ ông tabên lề đường ở finish
line, chỉ cách vụ nổ vài thước, nhưng may mắn không bị thương. Trong khi người
đàn bà đứng kế bên Amy thì bị chặt đứt hai chân mà mấy ngón tay. Thoát khỏi tại
họa ở Boston, ông trở về Texas để làm việc trở lại. Trên đường đến Dallas, ông
phải lái xe trên xa lộ 35 gần Waco thì đột nhiên ông nghe một tiếng nổ rất lớn
(ông kể giống như trái bom nguyên tử nổ). Một trái lửa rất lớn dội ngược vào xe
ông. May mắn thay ông không hề hấn gì.

cannghiepcuaconnguoi_003cannghiepcuaconnguoi_003Vào tháng ba, năm 2011, có trận động
đất rất lớn lên đến 9.0 Richter scale, dọc theo bờ biển Tohoku phía Đông Bắc Nhật
Bản
. Trận động đất kéo theo những đợt sóng thần cao đến 40.5 thước (133 ft), giết
chết trên 15,848 người, mất tích gần 6,011 người và tàn phá biết
bao nhà cửa…

Vậy nhà Phật giải thích hiện tượng
này như thế nào?

Trong nhà Phật có hai loại nghiệp, đó là biệt nghiệp
và cộng nghiệp.

1) Biệt nghiệp:
Như thường lệ, cứ mỗi sáng ông A đi tản bộ chung quanh khu phố nhà ông. Nhưng
sáng nay vì sương mù dày đặc nên một chiếc xe không thấy ông băng qua đường nên
đụng làm ông chết tại chỗ. Trường hợp cái chết của ông A là biệt nghiệp. Đối với
biệt nghiệp thì vấn đề trở nên đơn giản vì nghiệp ai đã gieo thì chỉ người ấy
chịu, nhưng trước một tai họa chung thì sự việc phức tạp hơn nhiều.

2) Cộng nghiệp:
Thật ra không nhất thiết một nghiệp ác đời nầy sẽ sinh ra quả báođời sau
Luật Nghiệp Báo đã sắp xếp quả báo của mọi người một cách rõ ràng từ nhiều trăm
năm về trước khiến họ sống quay quần với nhau dọc theo bờ biển, hoặc có những
người ở nước khác thì nhân duyên cũng khiến họ đi du lịch đến những nơi nầy
trong thời điểm xảy ra tai họa. Thật vậy, chính nghiệp lực đã thúc đẩy những
người có quả báo giống nhau tìm về
chung
một môi trường với nhau. Ví dụ có khoảng vài ngàn người trong quá khứ tạo
nghiệp ác ở rải
rác khắp nơi trên thế giớiquả báo của họ khá giống nhau là phải chịu
chôn vùi theo dòng nước. Nhưng nhân duyên để họ quay quần về sống gần nhau cần
phải
một thời gian là vài trăm năm sau, do đó khi chúng ta thấy trận động đất,
sóng thần ở Nhật Bản nước cuốn theo hàng ngàn người là có sự chuẩn bị nhiều
trăm năm của Luật Nghiệp Báo mà thôi. Chưa chắc là những nạn nhân nầy đã từng tạo
chung một nghiệp ác trong quá khứ. Có thể mỗi người tạo riêng cho mình mỗi nghiệp
ác
nặng nhẹ khác nhau, nhưng tất cả đều chiêu thành một quả báo giống nhau nên
nghiệp duyên đã thúc đẩy họ cùng định cư chung quanh bờ biển. Vì thế người
nghiệp nặng thì chết, người nghiệp nhẹ hơn thì bị gãy chân, gãy tay, hay chỉ bị
xây xát.

Một hôm, Đức Phật đang ngồi trên núi Linh Thứu thấy có nhiều đoàn tỳ kheo đi thiền
hành
. Đoàn thứ nhất gồm một số tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất, đoàn thứ
hai đi theo tôn giả Mục Kiền Kiên, đoàn thứ ba đi theo tôn giả Đại Ca Diếp,
đoàn thứ tư đi theo tôn giả A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo tôn giả Ưu Bà Ly
đoàn thứ sáu đi theo sau Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Đức Phật mới nói với các tỳ kheo
đang ở bên cạnh rằng:

-Những tỳ kheo cùng đi theo Xá Lợi Phất
là những tỳ kheotrí tuệ lớn. Những tỳ kheo cùng đi với Mục Kiền Liên là những
tỳ kheo có đại thần thông. Những tỳ kheo đi theo Đại Ca Diếp là những tỳ kheo
thích tu khổ hạnh đầu đà…Còn những tỳ kheođi theo Đề Bà Đạt Đa là những tỳ
kheo
có tâm ác dục.

Đức Phật đã kết luận rằng:

-Ai cùng đi theo
người nào là đã có cái nghiệp chung với người đó. Những tỳ kheo đi theo tôn giả
Xá Lợi Phất
có cái nghiệp chung, tức là cộng nghiệp, với Ngài về trí tuệ. Những tỳ kheo đi theo
tôn giả Mục Kiền Liên là có nghiệp chung với Ngài về thần thông… Cho tới các tỳ
kheo
đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục.

Ngày nay, chúng ta thấy cộng nghiệp hiển hiện rất thực
tế
cụ thể. Người thích cờ bạc chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ
ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng
kinh
niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng
nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhaubiệt nghiệp khiến chúng
ta
có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.

Vậy Nghiệp có thể
chuyển được chăng?

Con người từ trong quá khứ đã tạo biết bao Nghiệp
Báo
, mà cứ mỗi nghiệp chính là một nét vẽ, một vết mực điểm tô dần dần để hoàn
thành
bức tranh cho cuộc đời của họ ở đời sau. Một lời nói thiện vừa thốt ra
thì lập tức một niềm vui đã hình thành và ngược lại một hành vi ác vừa thực hiện
xong thì Luật Nghiệp Quả vô hình cũng lập tức kiến tạo một nỗi khổ để sắp đặt
cho họ phải thọ lãnh về sau. Do đó bao nhiêu hạnh phúc, khổ đau, cay đắng hay
vinh quang đều đã được hình thành xong từ kiếp trước. Như vậy khi con người vừa
mới kết tinh vào noãn bào của người mẹ thì hài nhi đã cưu mang một định mệnh do
chính nó tạo ra từ (kiếp) trước. Cái định mệnh vô hình nầy sẽ quyết định mọi
thưởng phạt cho cuộc đời của nó khi nó lớn lên. Nhưng đây là một định mệnh không do thần linh áp đặt mà do chính do con
người
tự tạo lấy cho mình
. Vậy con người có thể thay đổi được cái định mệnh
nầy không? Hay là với những nghiệp đã hình
thành, con người bị sức mạnh của nghiệp (lực) cuốn trôi khó mà chống lại?

Để trả lời nghi vấn nầy, trong kinh A Hàm, Đức Phật
dạy rằng:

Người gây nhân bất thiện, dù đời trước
hay sau, nếu họ biết tu tâm, tu thân và tu giới thì quả sẽ đổi thay. Còn nếu người
gây nhân bất thiện mà không biết tu tâm, tu thân và tu giới thì gây nhân nào sẽ
thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và nếu gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì
quả cũng đổi thay.

Chính Đức Phật đã cho chúng ta một nhận định rõ ràng
về cuộc sống để chúng ta không còn bận tâm về sự may rủi thành bại trong đời.
Nhưng làm thế nào để chuyển nghiệp?

Tâm hồn của chúng ta đã tích lũy biết bao khuynh hướng
vị
kỷ, tham lam, thù hận, đố kỵ, hơn thua…từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Vì chúng nóÝ nghiệp của đời quá khứ
nên đời hiện tại tất cả những khuynh hướng bất thiện nầy thúc đẩy chúng ta tiếp
tục
tạo tác những hành vi bất thiện để đưa chúng ta mãi mãi vào con đường tối
tăm
tội lỗi. Vậy muốn chuyển nghiệp
chúng ta phải cố gắng chuyển hóa nội tâm của mình trước đã, rồi hành động và
hoàn cảnh sẽ dần dần thay đổi theo sau.

Trong xã hội có nhiều người nhận thấy cuộc đời của họ
không được may mắn, khổ nhiều hơn vui và thường gặp cảnh trái ý nghịch lòng. Vì
tin sâu vào luật Nghiệp Quả nên họ công nhận rằng trong đời quá khứ họ ít làm
việc phước mà tạo quá nhiều nghiệp bất
thiện
. Vì khao khát muốn chuyển nghiệp, họ đi chùa cầu nguyện sự gia bị của thần
thánh
. Họ cúng dường một mà muốn hưởng phước đức tới mười. Họ cũng chịu khó làm
những việc thiện khác, nhưng nội tâm tham lam, ích kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Đối với
họ thì làm việc thiện vì muốn quả báo tốt cho chính họ chứ không phải tình
thương chân thật
đối với con người. Chính họ đã xây lâu đài phước thiện trên
bãi cát vì nó không xuất phát từ nội tâm thuần thiện nào cả. Theo luật Nghiệp Quả
thì dĩ nhiên đời sau họ sẽ gặp nhiều may mắn, nhưng trong họ bản chất tham lam,
ích kỷ vẫn còn và chính bản chất tham lam ích kỷ nầy sẽ thúc đẩy họ làm các việc bất thiện khác.

Vậy tu tâm hay chuyển hóa nội tâm
cố gắng loại bỏ cho được lòng tham lam, tính sân hận và tật si mê…Bản chất của
con người là tham ăn, tham uống, tham mặc, tham sống lâu, tham tiền, tham sắc,
tham danh, tham lợi… Ai đụng đến chút tự áinổi điên và hễ thấy vật đẹp,
cao quý thì muốn chiếm lấy. Đây là tâm trạng chung của con người vì tham, sân,
si đã ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Do đó chuyển hóa nội tâm là phải can đảm từ bỏ dần
dần
cho được tánh tham, tật đố để tâm được sáng suốt. Một khi tâm được sáng suốt
thì thân khẩu ý trở thành thanh tịnhdĩ nhiên căn nghiệp sẽ chấm dứt.

Phật dạy tu thân là thân nầy không
làm điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh xa. Còn điều thiện thì phải cố gắng
hoàn thành. Còn tu giới là người Phật tử phải giữ tròn ngũ giới, đó là không được
sát sanh, không được trộm cướp, không được vọng ngữ, không được uống rượu và
không được tà dâm. Tuy nói tu tâm, tu thân và tu giới nhưng chủ yếu vẫn là tu
tâm
. Nếu chúng sinh tu tâm được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn do đó
nghiệp khổ sẽ chấm dứtcuộc đời sẽ được an vui tự tai.

Đức Phật dạy nguyên nhân của mọi đau khổvô minh
ái dục, hay nói một cách khác chính lòng tham lam, sân hận, si mê là nguồn gốc
của mọi tranh chấp, oan trái để rồi đem đến những sự lo âu sầu muộnbất mãn.
Con đường chuyển hóa nội tâm thiết thựcchúng ta phải biết giữ mình theo Giới, Định, Tuệ để có thể diệt trừ tham, sân, si thì đời sống sẽ được tự tại bởi vì tham thì phá giới,
sân phá định, còn si thì phá trí tuệ. Cứu cánh của đạo Phật là giúp chúng sinh
giải thoát hoàn toànvĩnh viễn khỏi khổ, bằng cách tuyệt trừ mọi phiền não
phiền não căn bản nhất chính là si mê hay còn gọi là vô minh. Muốn diệt trừ
tận gốc vô minh, con người phải phát triển trí tuệ vì chỉ có ánh sáng của trí
tuệ
mới có đủ công năng xóa đi hết màn đêm bóng tối của si mê. Không phải hễ
con người có thân là phải khổ, nhưng khổ là tại vì chúng ta nhận định sai lầm
nhắm mắt chạy theo chủ kiến hay định kiến của mình. Vì thế Chánh kiến giúp con
người
thấy biết đúng mà nhà Phật gọi là “Như thị” và từ đó làm nền tảng để phát
triển trí tuệ. Thật vậy, có thấy biết đúng thì dòng tư tưởng mới trong sáng cho nên con người hãy suy tư chính chắn vì
tư tưởng sẽ biến thành lời nói. Hãy cẩn thận với lời nói của mình vì lời nói, ví như mủi tên bắn
đi rồi không lấy lại được,sẽ biến thành hành động. Hãy hành xử cẩn thận những
hành động của mình vì hành động sẽ biến thành thói quen (tập khí). Và sau cùng,
con người hãy nhìn lại những thói quen của mình vì thói quen kia sẽ biến thành nhân cách của mình đó. Cuộc đời
thanh thoát, nhẹ nhàng hay sóng gió chập chùng, phong ba bảo tố cũng bởi từ cái
nhân cách hay lối sống của chúng ta vậy. Nói cách khác cũng vì vô minh bất
giác
, con người lầm lẫn nương theo thân,
khẩu, ý mà tạo ra nghiệp (thiện, bất thiện)(Hành) và từ đó số phận của mình sẽ
do nghiệp lực đẩy đưa (Thức).

cannghiepcuaconnguoi_004cannghiepcuaconnguoi_004Nhà bác học Marie Curie nói rằng: “Không có gì trong cuộc đời
đáng sợ (khó khăn) cả, một khi chúng ta (thực sự) hiểu được nó”. Do vậy, đạo Phật là đạo không làm khổ
mình, không làm khổ người mà muốn thành tựu thì con người phải quay về sống với
đạo đức nhân bản tức là cố gắng ly
dục
, ly bất thiện pháp.

Một số người nói rằng điều kiện của một đời sống hạnh
phúc
là có sức khỏe, có tiền tài và có địa vị trong xã hội, nhưng một đời sống
hạnh phúc chân thật chưa chắc đã hoàn toàn dựa vào những điều kiện vật chất như
thế. Chẳng hạn như một người mạnh khỏe lại dùng sức mạnh của mình làm những điều
tội lỗi thì chẳng được ích lợi gì. Còn người giàu sang mà sống bỏn xẻn, ích kỷ,
tham lam vô độ thì chính họ chẳng tìm được hạnh phúc cho chính mình mà còn làm
hại đến kẻ khác. Người có địa vị lại lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm oan
trái oán thù mà thôi. Như thế thì tiền tài danh vọng chưa phải là yếu tố chính
cho một đời sống hạnh phúcđiều kiện tiên quyết để đem lại an vui là phải có
tinh thần sáng suốtlành mạnh. Được tinh thần sáng suốt lành mạnh nầy thì sẽ
không còn bị dục lạc, oán thù hay mê loạn chi phối. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:

– Người tùy theo thế tình thức là chạy theo tham cầu danh vọng. Khi được
công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời mà không lo
học đạo thì chỉ uổng công nhọc xác mà thôi. Ví như cây hương đốt, khi được người
ta ngửi thấy mùi thơm thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa nung đốt cháy
liền thân hương vậy.

Tôn chỉ của đạo Phật là giúp chúng
sinh
giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ
đauđể có cuộc sống an vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng sinh phải
biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm
gọn cốt lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn là”Không
được bám vúi vào bất cứ gì cả
” mà Kinh Kim Cang gọi là “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
”. 

Thêm nữa, muốn chuyển hóa nội
tâm
được chu toàn thì trước hết chúng ta phải phá tan cái bản ngã của mình. Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy rằng một khi
chúng ta chứng được “ngã không” nên
khi làm việc lợi ích cho người thì làm với một tâm niệm vô tư, không dính mắc.
Có nghĩa là khi làm việc thiện thì đừng nghĩ đến lợi lạc cho mình mà hướng tâm
về sự lợi lạc cho chúng sanh do đó việc thiện đó sẽ mang nhiều thiện quả về
sau. Ví dụ như khi chúng ta đi chùa lạy Phật thì thường hay cúng dường chút ít
tiền hay hoa quả, nhưng khi bái Phật thì chúng ta thường cầu nguyện cho con
trai có vợ đẹp, con gái có chồng giàu sang, làm ăn mua may bán đắt, bà con thân quyến được bình an mạnh giỏi…Như vậy chúng ta đi
chùa
với tinh thần bản ngãcầu lợi cho mình nên không đúng với lời Phật dạy.
Mục đích tới chùa lạy Phật là để bớt tham thế mà chúng ta đi chùa lạy Phật lại càng tham hơn thì cái bản ngã mê lầm đó sẽ
biến cuộc đời thêm đau khổ. Vì thế chúng ta nên làm việc phước đức với lòng
ngã
, tức là làm việc thiện mà không cần quả báo cho mình hay hướng lòng từ bi về
người khác, thì Luật Nhân Quả chẳng những sẽ đền bù cho ta nhiều phước đức về
sau hay ở đời sau mà còn tạo cho ta một nhân cách cao thượng và một tâm hồn
trong sáng để tiếp tục hưởng phước thiện và làm việc thiện.

Vậy chuyển nghiệp
cố gắng giải thoát cái bản ngã vị kỷ thấp hèn để có một đời sống đạo đức xả
kỷ, quên mình để sống trọn vẹnmọi người chung quanh.

Đời sống xả kỷ vị tha được coi là một đức hạnh cao đẹp
nhất của con người. Cho dù chúng ta chưa chứng được trạng thái vô ngã thực sự,
đó là không còn chấp cóCái Ta” và
Cái của Ta”, nhưng từng giây từng
phút, từng tâm niệm, chúng ta biết từ bỏ những lợi ích của mình để lo cho lợi
ích
của mọi người thì cái tự ngã đang từ từ bị tiêu diệt.

Đức Phật đã khẳng định
rất rõ ràng rằng ta gieo nhân thì chính ta phải gặt quả và không có tha nhân
nào, cho dù đó là Đức Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm có thể chuyển “quả” của chúng
ta
được. Nói cách khác, mình gieo nhân thì tự gặt quả lấy, hoàn toàn không có
một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ … can dự vô nhân quả của mình. Mình
gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới an
lành
. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy
tương ứng với cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy
sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo ác độc chớ không có một vị thần
nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả.

Tuy
nhiên
, muốn lìa khổ được vui, đạo Phật dạy chúng sinh chuyển nghiệp tức là
chuyển mê thành giác. Cơ quan phát ra và tạo thành nghiệp gồm có: thân, khẩu,
ý. Trong 3 thứ nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo
phân biệt, Duy Thức Học gọi nó là “liễu biệt cảnh thức”. Ý là chủ động tạo
nghiệp. Khi ý nghĩ điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và cái
thân làm điều lành. Ngược lại, khi ý nghĩ điều xấu ác, thì nó xúi giục cái
miệng nói điều xấu ác hung dữ và thân hành động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp
nầy là động cơ tạo thành thiên đường hay địa ngụcthế gian. Tất cả mọi khổvui của con người, từ cá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là tất cả nhân quần
hội
khắp năm châu bốn biển, đều do thân, khẩu, ý tạo ra cả. Cho nên, trong nhà
Phật rất chú ý đến 3 nghiệp quan trọng nầy. Sự tu hành của người Phật tử,
Phật dạy không cần tu đâu xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở nơi 3 nghiệp nầy. Một
người biết tu chuyển nghiệp, thì chính người đó được lợi
lạc
trong hiện tạimai sau. Gia đình nào biết tu chuyển nghiệp thì gia đình
đó được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm. Và từ đó, lan rộng ra xã hội được trật tự,
an bình, hạnh phúc, lợi lạc, đó là mục đích mà người Phật tử hướng đến.

Thế thì tu là chuyển
nghiệp
bởi vì nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu làm gì. Chuyển là
chuyển xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà thành chánh, chuyển dở
thành hay, chuyển mê thành giác. Sở dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa
nghiệp, bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên bên trong nội tâm hơn là nói cái bên
ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà
Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy.

Trở lại câu chuyện của ông Joe Berti ở trên. Đáng
lẽ
nhân duyên quả báo đưa đẩy ông và gia đình đến Boston để trả những nghiệp
quả
mà ông đã tác tạo từ kiếp trước, nhưng vì ông có tâm hồn thiện, hành động
từ tâm cứu giúp những người kém may mắn nên những phước đức quá to lớn đó đã chuyển
hết
những tội nghiệp ngày xưa khiến ông và bà vợ thoát khỏi tại họa hiểm
nghèo
. Đây là chuyện có thật bởi vì đạo Phật
đạo nhân duyên nghĩa là trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh
bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng nếu bây giờ biết thức tĩnh,
dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì
những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho
mình. Nhân mà không có duyên thì tuyệt đối không bao giờ thành quả. Cũng như
gạo (nhân) mà không có nước, không nấu (duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).

Có người lý luận ngày
xưa
Tôn giả Mục Kiền Liên bị bọn ngoại đạo lõa thể ném đá cho đến chết là để trả
hết những tội nghiệpkiếp trước Tôn giả làm nghề đánh cá đã giết hại vô số
chúng sinh? Dựa theo tinh thần Phật giáo, Tôn giả là người tu đắc đạo, chứng Thánh
quả
A la hán, tâm hoàn toàn thanh tịnh thì tất cả chủng tử hữu lậu đã chuyển
thành chủng tử vô lậu nghĩa là tất cả tội nghiệp đã biến mất. Thế thì còn tội
gì để Tôn giả phải trả? Còn chuyện sống chết của người “đắc đạo” là do nhân
duyên
chớ không phải do tội nghiệp. Cũng như khi nhân duyên độ sanh hết thì Đức
Phật
nhập Niết bàn thế thôi. Nên nhớ A la hánquả vô sanh vì thế từ Đức Phật
cho đến tất cả các vị A la hán khác không còn tái sanh nữa cho nên không có vấn
đề
các Ngài tái sinh trở thành vị này vị kia để độ sanh được. Do đó, cứu cánh của
đạo Phậtgiải thoát chớ không phải tái sinh.

Để làm sáng tỏ vấn đề,
có người hỏi Đức Phật rằng:

Bậc A-la-hán còn hay không còn sau khi chết?

Đức Phật trả lời rằng:

Bậc A-la-hán đã giải thoát khỏi 5
uẩn thật sâu thẳm, khó lường như đại dương. Bảo rằng Như Laitái sinh sẽ
không thích hợp cho trường hợp này. Bảo rằng Như Lai không tái sinh, cũng không
phải không tái sinh đều không thích hợp cho trường hợp này.

-Không thể nói rằng một
bậc A-la-hán còn tái sinh, vì tất cả những dục vọng tạo điều kiện tái sinh đều
được đoạn trừ, cũng không thể nói rằng bậc A-la-hán bị hủy diệt, vì không có
cái gì để hủy diệt cả.

cannghiepcuaconnguoi_006cannghiepcuaconnguoi_006Đức Phật khi còn tại thế đã cực lực chống đối lối cúng tế nghi lễ phức tạp
của Bà la môn và tôn thờ thần thánh một cách mù quáng. Đó là một trong những
nguyên nhân đạo Phật ra đời để thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội
phong kiến, đẳng cấp, kỳ thị của Ấn độ lúc bấy giờ. Ngài xiễn dương tình thần
khách quan bình đẳng vì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn (Nguyên thủy) hay ai ai cũng đều có Phật tánh (Đại thừa) cho nên thay vì kỳ thị, xua đuổi con người
nên gần lại với nhau, cùng nhau xoa dịu những mãnh đời bất hạnh. Nhân loại kính phục Đức Phật chẳng những Ngài là đấng vô thượng đạo sư mà
cuộc sống thanh bạch của Ngài là một tấm gương sáng chói rạng ngời, là mẫu mực
cho những ai muốn đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Đức Phật y bát bình thường giản dị, đi chân đất đầu đội trần.Ngài nhỗ tận gốc rễ phong kiến, giai cấp và bỏ công danh phú quý như bỏ đôi dép rách.

cannghiepcuaconnguoi_005cannghiepcuaconnguoi_005Phải hiểu rằng đạo Phật có mặt để đem lợi ích cho cuộc đời,
chớ không phải để cuộc đời đem lợi ích lại cho đạo Phật.

Do đó một Phật
tử
chân chính là người thấm nhuần giáo lý Đức Phật, rồi sau đó quay lại sống với
mọi người bằng lòng từ bi vô ngã. Phật phápcon đường để sống, là ánh sáng
trí
tuệ hướng dẫn mọi người sống đúng với chân lýchắc chắn sẽ mang lại an
vui tự tại cho mình và cho tất cả mọi người.

Học Phật trước tiên là học
làm người nghĩa là phải vun bồi đời sống đạo đức nhân bản thì thân tâm mới được
tự tại cho nên Phật mới dạy Bát Chánh đạo để chuyển hóa cuộc sống dần dần từ
phàm đến thánh. Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng cũng nói rằng:”Phật Pháp tại thế
gian, không lìa thế gian giác
” là như vậy. Còn lìa thế gian mà tìm Bồ Đề
Niết bàn chẳng khác tìm lông rùa, sừng thỏ mà thôi.

Khi nói về thiện ác, Lục Tổ dạy
rằng:

Ngột ngột bất tu thiện nghĩa là đừng đặt vấn đề thiện vì bất cứ việc gì không trái
với
chơn tánh thì con người gán cho nó cái tên là thiện, chớ chẳng có gì thật
thiện ác cả.

Đằng đằng bất tạo ác nghĩa là chuyện ác ở đâu cũng có chỉ có điều là mình không
làm vì thế nếu không làm ác thì tự nó thành thiện chớ chẳng có cái gì là thiện. 

Tịch tịch bất kiến văn nghĩa là không còn chấp nơi thấy, nghe, hay, biết thì có
thanh tịnh nhẹ nhàng tức là thấy thì thấy tất cả mà như không thấy gì hết.
Nghe, ngửi, nếm, xúc, biết cũng thế. Nói thế thì người chứng đạo cũng biết vui,
biết đẹp, biết xấu, biết dở, biết tất cả đấy chứ, nhưng họ không đưa cái biết ấy
vào tâm (vô trướckhông chấp) để rồi sanh ra tham luyến cho nên đối với họ cái gì cũng biết nhưng xem như
không biết gì hết.

Đản đản tâm vô trước nghĩa là tâm thênh thang mở rộng như trời cao đất rộng,
không còn dính mắc, chấp trước. Trời thì che chở bao dung cho tất cả mà không
ý niệm che chở riêng cho bất cứ một chủng loại nào. Đất thì bao dung tất cả
cho dù con nguời có đổ lên đất những thứ hôi tanh nhơ bẩn hay hương hoa thơm
ngát thì đất cũng an nhiên, không giận, chẳng mừng.

Vì thế Phật giáo nhập thế
phải từ cái thế gian đầy ô nhiễm này mà tự mình thanh lọc thân tâm, quán biết đời
là giả tạm, cố gắng buông bỏ mỗi ngày một chút thì hoa sen nơi chính mình sẽ
vươn lên và nở rộ. Cho dù đóa sen còn nằm trong bùn, sắp vọt ra khỏi bùn, vươn
lên khỏi mặt nước hay đã nở rộ thì tất cả đều mang theo bên trong mình một tiềm
năng để trở thành những đóa sen tươi đẹp, màu sắc rực rỡ và hương thắm dịu
dàng
.

Tóm lại, Đức Phật khai mở một
tôn giáo lấy lý trí làm nền tảng, một tôn giáo khoa học, một tôn giáo dựa trên
tinh thần vô ngã vị tha, một tôn giáo
tín ngưỡng cho nên toàn bộ giáo lý Phật Đà dựa trên giáo lý “Duyên Khởi”
nghĩa là tất cả hiện tượng vật chất hữu vi trên thế gian này từ nhỏ như vi trần
cho đến to lớn như biết bao hành tinh trong muôn vàn dãy Thiên hà đều là do trùng
trùng
duyên khởi tức là vật thể làm nhân làm duyên, nhân này quả nọ, tác tạo mà
thành chớ không có bàn tay mầu nhiệm nào nhúng vào. Từ đó tam pháp ấn (xương sống)
của nhà Phật ra đời, đó là “vô ngã, vô thường, khổ” (Nguyên thủy) hoặc “vô ngã,
vô thường, Niết bàn” hoặc là “vô ngã, vô thường, khổ, không” (Đại thừa). Nếu đã
Duyên Khởi thì làm sao có tín ngưỡng được?

Lê Sỹ
Minh Tùng

 

 

i