Bốn Dấu Ấn Của Phật Pháp

0
54


BỐN DẤU ẤN CỦA PHẬT PHÁP

Trích trong
quyển sách: CHUYỂN HÓA TÂM (Phát khởi Tâm Từ Bi)

của Đạt Lai Lạt
Ma
thứ 14


Nguyên
tác:TRANSFORMING THE MIND (Teachings on Generating Compassion)
Anh ngữ: Geshe
Thupten Jinpa – Dịch sang Việt ngữ: Chân Huyền

dalialama-010231237dalialama-010231237Trong đời
sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được
đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người. Muốn
trả lời câu hỏi vì sao thế? Có lẽ ta chỉ cần nói “Nó vậy đó!”

chúng ta ai
nấy
đều có ước nguyện tự nhiên đó, dù chúng ta đều tìm cầu hạnh phúc, nhưng
cũng thật sự tự nhiên, chúng ta ai cũng phải gặp đi gặp lại những cảnh đau khổ
đủ mọi loại. Vì sao như thế? Vì sao khi thật lòng mong được sung sướng, chúng
ta
lại cứ bị phiền não.

Theo quan điểm
của Phật giáo, nguyên nhân chỉ vì chúng ta có một số quan niệm căn bản sai lầm
về cách nhận thức sự việc liên quan tới chúng tathế giới bên ngoài. Nhìn
tận gốc, đạo Phật cho là ta có bốn loại nhận thức sai lạc hay là bốn
kiến
.

Trước hết,
chúng ta nhìn mọi sự vật là vĩnh cửu, thường hằng bất biến, trong khi thực sự
chúng thay đổi liên tục và chỉ tồn tại một thời gian. Tà kiến thứ hai: chúng ta
coi mọi sự kiệnsự thật là nguồn gốc của khổ não – như những nguyên nhân mang
lại hoan lạc, hạnh phúc.

Thứ ba: chúng
ta
coi những thứ bất tịnh như các thứ thanh sạch, đáng ao ước. Thứ tư: chúng ta
có khuynh hướng coi mọi thứ đều hiện hữu trong khi thật sự không có sự vật nào
có tánh cách riêng của nó.

Những tà kiến
căn bản trên khiến ta nhìn mình và thế giới liên hệ tới mình một cách sai lạc,
đưa ta tới những rối ren đau khổ. Trên động cơ căn bản này, đạo Phật đưa ra bốn
thứ dấu ấn (Tứ pháp ấn)
như những tiền đề, nguyên tắc chính trong tất cả các
tông phái Phật giáo. Đó là:

Mọi sự vật
(pháp) do nhân duyên tạo thành đều thay đổi luôn luôn (Vô thường).
– Những gì bất
tịnh
đều “bất thỏa đắc” (Khổ).
– Không có sự việc
nào có tánh cách riêng biệt (Không).
Niết bàn là nơi
thật sự có an lạc (Niết bàn tịch tĩnh).

1.- Vạn pháp
đều vô thường
: Đây là pháp ấn thứ nhất, căn bản của đạo Phật: mọi sự đều
thường
thay đổi hoài hoài. Mọi sự hay vạn pháp đây là tất cả những gì do nhân
duyên
mà được tạo nên, chúng luôn luôn thay đổi như chất lỏng tuôn chảy thành
dòng liên tục.

Trong cái nhìn
phiến diện sơ qua về vô thường, chúng ta đều nhận thấy được mọi sự vật thay đổi
chấm dứt ra sao? Nhưng Phật pháp đi xa hơn, cho rằng dưới tầng lớp của những
thay đổi ta nhìn thấy, còn có một tầng lớp thay đổi thâm sâu vi tế hơn không lộ
ra ngoài.

Nếu chúng ta
nhận diện được những thay đổi trong một quảng thời gian dài, thì ta cũng có thể
tìm hiểu tới những thay đổi trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất mà ta có thể
tưởng tượng ra. Dù chỉ trong một phút giây, diễn biến đổi thay vẫn luôn luôn
hiện diện.

Mọi sự vật đều
có chút gì thay đổi dù chỉ nhìn từ trong một đơn vị thời gian cực ngắn (sát
na
). Do đó chúng ta có thể lý luận rằng vạn pháp do nhân duyên tạo thành đều có
bản chất vô thường. Nghĩa là mọi sự vật đều phù du chóng tàn.

Khi bạn hiểu
được quan điểm căn bản này thì bạn sẽ nhìn thấy hạnh phúc mà ta ao ước cũng như
đau khổ ta muốn tránh, đều cũng là những chuyện do nhân duyên đưa đẩy. Chúng không
từ đâu tới, chỉ do các nhân duyên khởi lên.

Dù cho bạn phải
kinh qua một chuyện đau khổ, lớn lao tới đâu chăng nữa, nó cũng là do các nhân
duyên
– và như vậy, nó sẽ qua đi. Hạnh phúc hay đau khổ đều có tính chất đổi
thay luôn luôn. Hạnh phúcđau khổ bình đẳng với nhau vì có cùng bản chất
thường
.

2.- Mọi sự bất
tịnh
đều bất thỏa
: Pháp ấn thứ hai đề cập tới sự khác biệt giữa hạnh phúc
khổ đau, cho rằng bản chất của những hiện tượng bất tịnh là gây ra sự không hài
lòng
(bất thỏa hay bất thỏa đắc). Điều này có thể hiểu ngầm là những gì không
do các nhân duyên bất tịnh thì có thể mang lại sự hài lòng, thỏa mãn.

Khi nói về
những gì bất tịnh ở đây, ta muốn nêu lên những sự cố khởi lên do những nhân
duyên
bất thiện, những cảm nghĩ tiêu cực, phiền não. Nó bị gọi là bất tịnh
bị nhuốm những chất ô nhiễm của tâm. Do đó, căn bản của chúng là không đem lại
sự thỏa lòng, bản chất của chúng là khổ đau (Duhkha).

Dấu ấn thứ hai
không chỉ nói tới những cảm giác mà ai cũng công nhậnđau đớn hay phiền não.
Dĩ nhiên, chúng ta đều ao ước muốn thoát khổ, nhưng tùy vào sự tỉnh thức của
mỗi người, chúng ta hiểu về cái khổ một cách khác nhau.

Đạo Phật nói
tới loại khổ trong pháp ấn thứ hai này, là có ý đề cập tới những loại khổ ở
tầng lớp rất vi tế. Những ai đã hiểu Phật pháp đều biết trong đạo Phậtba
loại khổ
: Khổ khổ, Hoại khổHành khổ. Chúng ta đề cập tới loại khổ cuối này
ở trong pháp ấn thứ hai.

Như tôi đã
trình bày, pháp ấn thứ hai có ngụ ý, nếu chúng ta không bị ô nhiễm trong tâm
thì chúng ta sẽ có hạnh phúc lâu dài và nguyên sơ mà ta hằng ao ước. Câu hỏi là
vì sao các vọng tâm ô nhiễm đưa chúng ta vào những kinh nghiệm khổ đau? Và
chúng ta có thể nào vượt thắng được các loại cảm nghĩ tiêu cực bất thiện đó
chăng?

Những thứ tâm ô
nhiễm
hay các cảm nghĩ tiêu cực bao gồm tất cả các loại suy tư, cảm xúcbản
chất
phiền não. Từ ngữ Tây Tạng Nyon-mong có nghĩa là những gì làm cho ta đau
khổ
từ bên trong chúng ta, chúng gây ra phiền nãođau khổ.

Tôi muốn nói
tới gốc rễ của tất cả nỗi khổ đau nơi chúng ta, ở tầng lớp vi tế, đó chính là
các năng lượng bất thiện của những cảm nghĩ tiêu cực nằm sâu trong tâm
ta.

Điều này có
nghĩa là những gốc rễ của khổ đau có sẵn ở bên trong chúng ta, các gốc rễ hạnh
phúc
cũng vậy. Do đó, ta biết rằng tùy theo tâm mình có kỷ luật nhiều hay ít,
ta sẽ có được hạnh phúc hay đau khổ. Tâm có kỷ luật, tâm được chuyển hóa thì
đưa tới an vui – trong khi tâm vô kỷ luật, bị các phiền não dẫn dắt, đưa ta tới
khổ não.

Bây giờ chúng
ta
có thể phối hợp những quán tưởng của ta về hai dấu ấn đầu tiên. Thứ nhất,
mọi sự đều vô thường: ta hiểu mọi sự vật đều do nhân duyên hiện khởi, không chỉ
tùy thuộc vào các thứ khác để sinh tồn, mà chính tự nó cũng luôn luôn chịu theo
quy luật biến chuyển, không thể tự đứng vững. Hơn nữa, sự biến chuyển không đòi
hỏi một phân tố thứ ba nào làm động cơ. Chính những nhân duyên tạo ra sự vật đó
cũng là những nhân duyên làm cho nó ngừng lại.

Nếu chúng ta
phối hợp “cái thấy” này với cái thấy trong pháp ấn thứ hai, ta sẽ
hiểu rằng tất cả những gì hiện khởi do kết quả của các nhân duyên bất tịnh – là
những vọng tâm ô nhiễm – thì chúng đều có căn bản không mang tới hạnh phúc, vì
chúng bị các tâm không trong sạch chỉ đạo.

Suy nghĩ như
thế, ta sẽ nhận biết được rằng, chúng ta đã để cho mình bị các cảm nghĩ bất
thiện
kiểm soát, và hơn nữa, ta đã để cho các cảm nghĩ đó bị những năng lực
tiêu cực trong tâm kềm chế. Ta cũng sẽ bắt đầu hiểu được rằng, nếu ta cứ tiếp
tục
để tình trạng như thế, nó sẽ dẫn ta tới khổ đau. Theo đó, các cảm nghĩ bất
thiện
trong ta thật sự là những năng lượngtính cách phá hoại.

Những gì làm
hại ta hay mang lại tai ương đều được gọi là kẻ thù. Kẻ thù đích thực của ta
thật ra nằm trong chính ta! Vậy mới là khó khăn. Nếu kẻ thù ở bên ngoài, ta có
thể chạy trốn hay ẩn náo. Đôi khi ta có thể đánh lừa hắn nữa. Nhưng kẻ thù ngay
trong ta, thật khó mà biết phải làm sao.

Câu hỏi nồng
cốt cho người tu tập theo con đường tâm linh là ta có thể thắng được kẻ nội thù
đó chăng? Đây là sự thử thách quan trọng nhất của chúng ta.

Có vài triết
gia
thời cổ cho rằng, tánh ô nhiễm là một bản thể của Thức, không thể tách rời
nó ra được, nếu thức còn thì những bất tịnh còn hiện diện. Nói như thế ngụ ý là
ta không thể thắng được nó.

Nếu thật sự như
vậy, tôi thà làm một người theo chủ nghĩa hưởng lạc. Tôi chẳng cần cố gắng tu
tập
làm gì, sẽ đi tìm khuây khỏa trong rượu hay trong các thứ khác, bỏ qua luôn
các ý tưởng về tu luyện tâm linh. Và tôi cũng chẳng cần để ý tới những thắc mắc
triết học đó. Có lẽ, đó là cách tốt nhất để có hạnh phúc chăng?

Nếu các bạn so
sánh
con người với con vật, bạn sẽ thấy đôi khi loài người chúng ta bị kẹt vào
những tưởng tượng, suy tư nên chúng ta tự tạo ra những rối ren phiền phức,
trong khi lũ vật không có những sinh hoạt tinh thần thì chúng lại hài lòng,
bình thản và thoải mái. Chúng ăn khi được nuôi và ngủ khi nghỉ ngơi. Trong một
khía cạnh nào đó, loài vật tỏ ra hài lòng hơn chúng ta nhiều. Vấn đề này đưa ta
tới pháp ấn thứ ba.

3.- Mọi sự vật
đều không có tự tánh
: Pháp ấn thứ ba: mọi pháp đều trống rỗng không có tự tánh.
Ta không nên hiểu dấu ấn này là chủ thuyết hư vô. Bạn không nên nghĩ rằng đạo
Phật
dạy những điều nếu đem phân tích tới cùng thì mọi sự đều không hiện hữu.
Không phải vậy.

Khi nói về an
lạc
, phiền não, về các phương pháp tốt nhất để thêm vui bớt khổ, chắc chắn
chúng tôi không bao giờ cho là mọi sự đều không hiện hữu. Pháp ấn thứ ba có
nghĩa là có một sự khác biệt căn bản giữa nhận thức của ta về mọi sự vật so với
bản chất thực của chúng. Mọi chuyện không hiện hữu như chúng ta tưởng về nó –
không hiện hữu độc lậprõ ràng như ta nghĩ.

Để có thể xét
coi những cảm nghĩ tiêu cực như giận, ghét v.v… có thật sự nằm trong bản chất
của tâm ta không, chúng ta phải quán sát chính mình và những kinh nghiệm mình
đã trải qua.

Sự giận ghét có
hiện diện thường xuyên trong tâm ta không? Đôi khi ta giận, có lúc ta ghét, rồi
các cảm nghĩ này cũng biến đi. Không phải có tâm thức là có các cảm xúc bất
thiện
này. Có khi giận ghét khởi lên, nhưng cũng có lúc các đối lực của nó:
lòng từ bi, thương yêu cũng khởi lên.

Đạo Phật cho
rằng tâm thức căn bản của chúng ta như bị các đám mây bao phủ, khi các cảm nghỉ
khởi lên. Chúng tôi cũng cho rằng hai cảm xúc trái ngược như yêu và ghét không
thể cùng một lúc hiện diện trong tâm của một con người. Những cảm nghĩ khác nhau
hiện ra trong tâm ta tùy lúc, do đó không thể có chuyện các cảm xúc tiêu cực
lúc nào cũng hiện diện, bám chặt vào bản tâm chân thật của mình.

Vì vậy, ta ví
các cảm nghĩ thiện hay bất thiện chỉ như những đám mây che khuất tâm chân thật:
bản tâm chúng ta thanh tịnh, trung tính; có thể bị các vọng tâm thiện hay bất
thiện
ảnh hưởng. Vậy thời chúng ta có hy vọng.

Trong căn bản
lý luận này, vấn đề quan trọng là ta có thể nào loại bỏ được những cảm nghĩ bất
thiện
đó hay không?

Trên kia, chúng
ta
đã thấy rằng mọi sự vật đều thay đổi trong vô thường – có nghĩa là chúng ta
có thể vượt thắng được những cảm xúcý nghĩ bất thiện. Trong bình diện phổ
quát và căn bản hơn, chúng ta muốn biết những ô nhiễm trong tâm thức có thể
hoàn toàn bị loại trừ hay chăng? Tất cả các trường phái Phật giáo đều cho là có
thể. Trong nhiều kinh luận của đạo Phật, chúng ta thấy có rất nhiều bài giảng
cặn kẽ về bản chất của các loại tâm bất thiện, về tiềm năng phá hoại và các
nhân duyên tạo ra chúng v.v… Căn bản của những bài giảng này là tìm cách diệt
tận gốc rễ các năng lực tiêu cực đó.

Dĩ nhiên chúng
ta
có thể nói chuyện Phật pháp trong bối cảnh giới luật như: không được giết
hại, nói dối v.v… hoặc phải làm những điều lành. Nhưng các giới luật này chỉ
ý nghĩa đại cương vì các hướng dẫn đạo lý như vậy không phải là những gì đặc
biệt
chỉ đạo Phật mới có.

“Khả năng
có thể làm bặt hết các năng lực bất thiện trong ta mới là sự hành trì đặc sắc
của đạo Phật. Đó là Niết bàn tịch tĩnh, là sự giải thoát toàn diện, sự ngừng
bặt của tất cả những phiền não trong tâm. Ta có thể nói Niết bàný niệm căn
bản
của Phật pháp”.

Đối với một
Phật tử, tất cả những phép tu tập phải được hiểu là để đạt tới tinh thần tự do
tuyệt đối, không còn bị tâm ô nhiễm làm vướng bận. Điều này cũng áp dụng vào
Giới, vì giữ giới nghiêm mật cũng là để tiến tới mục tiêu giải thoát.

Mục tiêu tối
hậu
của người Phật tử là nhổ tận gốc những cảm nghĩ bất thiện trong tâm, nguồn
gốc của những hành động xấu ác. Sự cố gắng của người Phật tử thể hiện qua tác
phong đạo đức trong lối sống của họ, chứng tỏ họ có thật sự muốn chuyển đổi
những gốc rễ tiêu cực đó hay không? Những nỗ lực đầu tiên của các nỗ lực đó là
các hành động (thân nghiệp) và lời nói (khẩu nghiệp) của họ.

Khi phân tích
tánh chất của các cảm xúcý nghĩ tiêu cực, ta nhận ra nền tảng phía dưới của
chúng luôn luôn là những vọng tâm – những tưởng tượng do tâm phóng chiếu ra dù
có đối tượng hay không.

Chẳng hạn khi
có một vật ta cho là hấp dẫn, ta sẽ cảm nhận những điểm đáng yêu của nó, và qua
trí tưởng tượng, làm cho vật đó trở nên hấp dẫn nhiều hơn. Ta sẽ có khuynh
hướng dễ dãi với nó, muốn gần cận rồi trở nên ngày càng vướng mắc vào đối tượng
ấy.

Tương tự như
vậy, khi ta gặp phải những việc ta không ưa, ta thường phủ lên nó các tính cách
không giống với bản chất của nó. Đây là các phản ứng ta thường có đối với mọi
sự vật: hoặc ta bị lôi cuốn, hoặc muốn lánh xa.

Hai khuynh
hướng này khiến chúng ta có những phản ứng tâm lý đối với mọi sự vật. Động cơ
nằm dưới những phản ứng này của ta là sự dính mắc quá nhiều vào đối tượng. Dính
mắc có thể là sự ham muốn hoặc chối bỏ. Do đó ta bị khổ đau.

Trong các tông
phái
Phật giáo, người ta có những hiểu biết khác nhau về bản chất của khổ,
nguyên nhân tạo ra khổ, tùy vào quan niệm của tông phái đó đối với bản chất
thực tại. Có lẽ Pháp Tướng tông (Duy Thức hay Duy Biểu), có cái hiểu sâu xa hơn
về khổ.

Đại sư Long Thọ
(Nagarjuna) nói rằng Niết bàn phải được hiểu là sự tự do thoát khỏi các khổ thọ
trong tâm và các hành nghiệp do khổ tạo ra. Ta đau khổ vì những hành động gây
nghiệp chướng, và những nghiệp dĩ này là do các cảm nghĩ bất thiện trong ta
thúc đẩy.

Những cảm xúc
tư tưởng bất thiện tự chúng đều là sản phẩm của các phóng chiếu và tưởng
tượng, có gốc rễ từ các nhận thức sai lầm về thực tại. Nhận thức sai lầm đây
chính là quan niệm cho rằng mọi sự vật đều có thật, hiện hữu độc lập và có tự
tánh
riêng.

Theo ngài Long
Thọ
, hiểu biết về Không (Emptiness) thật sự giúp ta loại bỏ được vô minh căn
bản
, quan niệm sai lầm của ta về thế giới. Điều này liên quan trực tiếp tới
pháp ấn thứ ba: mọi vật đều trống rỗng và không tự mình tồn tại được.

Pháp ấn này cho
ta biết, dù bình thường ta tin rằng mọi sự vật đều có thật và thường hằng, có
thể hiện hữu độc lập, nhưng thực sự chúng không có các đặc tính như vậy. Quan
niệm
cho rằng mọi sự vật đều hiện hữutồn tại một cách độc lập là một nhận
thức
sai lạc.

Chỉ có sự giác
ngộ
về tánh Không mới giúp ta loại bỏ được sự sai lầm này. Tuệ giác về Không
giúp ta có thể loại bỏ được những cảm nghĩ tiêu cực, vốn có gốc rễ từ những
nhận thức sai lạc đó.

Hơn nữa, ta
cũng sẽ hiểu ra là giữa các cảm nghĩ bất thiệntuệ giác về Không, có sự đối
nghịch trực tiếp với nhau. Tuệ giác bắt nguồn và được hỗ trợ từ những kinh
nghiệm
và lý giải vững chắcgiá trị, trong khi cảm nghĩ tiêu cực thì không.
Nhìn vào toàn thể các chuyện đã nêu trên, ta sẽ thấy rằng nếu ta có tuệ giác về
tánh Không, ta sẽ loại trừ được các đau khổ trong tâm thần.

4.- Niết Bàn
an bình thật sự
: Pháp ấn thứ tư xác định rằng bản chất của tâm là thanh tịnh,
sáng láng. Những ý niệm sai lầm, những cảm nghĩ tiêu cực không có sẵn trong bản
chất
của tâm. Biết rằng các phiền não khổ đau có gốc rễ từ những nhận thức sai
lầm
, ta biết có một thứ đối trị được chúng: đó là tuệ giác về tính rỗng không
của mọi sự vật, hay nhận thức đúng về thực tại.

Do đó, tánh
trống rỗng nghĩa là không có sự hiện hữu tự tại, đôi khi được gọi là “Niết
Bàn tự nhiên”. Vì bản chất của các hiện tượng là trống rỗng nên Niết Bàn
tức là thực sự thoát khỏi đau khổ – là điều ta có thể đạt tới.

Điều này giải
thích
sao kinh điển Phật giáo nói tới bốn loại Niết Bàn: Tự tánh Niết bàn,
nói về tánh trống rỗng; Hữu dư Niết bàn, kể tới sự tiếp tục hiện hữu vật chất
của cá nhân; Vô dư Niết bàn và sau cùng là Vô trụ xứ Niết bàn. Vì có Tự tánh
Niết bàn nên mới có ba loại sau.

Ý nghĩa chính
xác
của Vô dư Niết bànHữu dư Niết bàn được giải thích khác nhau trong các
tông phái Phật giáo. Một số trường phái định nghĩa Hữu dư gồm các uẩn tạo thành
cá nhân, một số khác lại hiểu Hữu dư chỉ là những nhận thức nhị nguyên còn sót
lại. Cái Dư của ngũ uẩn chỉ các thành phần vật chất ta có, do kết quả của các
nghiệp trong quá khứ. Tuy nhiên chúng ta không cần đi sâu vào chuyện này.

Điều căn bản
từ pháp ấn thứ ba, chúng ta hiểu được rằng bản chất của mọi sự vật chúng không
thể hiện hữu độc lập. Trong khi đó ta thường có quan niệm sai lầm là chúng có
tự tánh riêng biệt.

Nhận thức
minh
này là gốc rễ của bao nhiêu rối renphiền não trong ta. Tuệ giác về tánh
Không
của vạn pháp cho ta lực đối trị với các nhận thức sai lầm, do đó thoát
được khổ đau. Niết bànhoàn toàn rũ bỏ được các cảm nghĩ tiêu cực và các
nhận thức sai lạc ấy.

Niết bàn là sự
tự do, không còn khổ, cũng không còn các nguyên nhân gây khổ. Hiểu Niết bàn như
vậy, ta bắt đầu hiểu được hạnh phúc chân thật nghĩa là gì. Ta có thể nhìn ra
được khả năng được tự do hoàn toàn, không còn khổ đau.

Vậy chúng ta
thể kết luận như sau: Tuệ giác về tánh trống rỗng (tánh Không) có khả năng giúp
ta loại trừ hết những cảm xúctư tưởng bất thiện, cũng như các nhận thức sai
lầm
, nền tảng của chúng. Trong tuệ giác về Không, mọi chất ô nhiễm đó bị quét
sạch
và được tịnh hóa. Vậy thì, điểm chính yếu là người Phật tử phải hiểu về
Niết bàn, căn cứ trên tuệ giác về Tánh Không.

é