Biết Ơn Và Đền Ơn

0
33

BIẾT ƠNĐỀN ƠN
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

 Từ xưa nay có nhiều chuyện thật là trái ngang như vậy, rất hiếm có những
người con nuôi dưỡng cha mẹ đầy đủ lo từ vật chất cho đến tinh thần. Vậy mà
người mới vừa nuôi cha mẹ một chút đã kể công đủ thứ hoặc tệ hại hơn tìm cách
tránh né trách nhiệm bổn phận làm con. Thật tế trong cuộc sống con bỏ cha mẹ
thì nhiều chứ ít có cha mẹ nào bỏ con. Đức phật của chúng ta là một người con đại
hiếu
, sau khi thành đạo Ngài đã dùng thần lực lên cõi trời Đao Lợi để hướng dẫn
cho mẹ mà chỉ dạy pháp giác ngộgiải thoát. Đến khi vua cha bệnh nặng ngài về
khai thị để cha được chứng quả thánh và chính ngài đích thân gánh kim quan của
cha đi thiêu mà làm gương cho nhân loại.

 Trong các bản kinh ngài thường dạy các thiện nam tín nữ ngoài việc lo
chăm sóc chu đáo về mọi mặt, khuyên cha mẹ quy y Tam bảo hoặc xuất gia tu hạnh
giác ngộgiải thoát, đây mới là người con đại hiếu. Biết ơnđền ơn
giáo lý nền tảng của đạo Phật nên trong kinh nhân quả ba đời Phật dạy người Phật
tử
chân chánh trước tiên phải biết hiếu dưỡng cung kính đối với cha mẹ, sau đó
rồi mới quý kinh tôn trọng Tam bảo, kế đến là bố thí cúng dường phóng sinh giúp
người cứu vật và cuối cùng ăn chay làm lành lánh dữ. Một con người nếu không biết
hiếu thảo đối với cha mẹ, thì khó mà làm ăn thành đạt được vì ơn nghĩa hai đấng
sinh thành mình còn chối bỏ thử hỏi người đó có bao giờ sống tốt với tha nhân
được không? Đối với cha mẹ mình mà ta còn làm ngơ không chút thương xót, không
biết hiếu nghĩa, hiếu kính, hiếu hạnh, hiếu tâm. Một người như thế thì việc ác
nào cũng có thể làm, thì thử hỏi làm sao mà họ tín kinh Tam bảo được. Nếu vậy
thì
làm sao họ có tâm giúp người cứu vật mà làm lành lánh dữ. Một con người
không có những chất liệu trên nếu có sống chẳng giúp ích gì được cho ai, ngược
lại còn làm tổn hại cho nhân loại. Biết ơnđền ơngiáo lý nền tảng của
người Phật tử chân chánh, khi thọ ơn ai dù là một việc nhỏ cũng không bao giờ
quên. Người thế gian gọi đó là người tốt, người sống có tình có nghĩa, ngược lại
khi thọ ơn ai mà vờ làm lơ có khi còn đối xử tệ bạc với người ơn của mình nữa,
thế gian gọi đó là kẻ tiểu nhân, là người vong ơn bội nghĩa. Vậy cuộc sống này
biết ơnđền ơn là nền tảng đạo đức sống của nhân loại, cho nên ơn nghĩa
cái gốc của đạo làm người. Con cái luôn hiếu kính với cha mẹbiết ơn mang nặng
đẻ đau, sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, học trò quý kính thầy cô chăm chỉ học
hành
biết ơn thầy cô. Trong cuộc sống Phật thường nêu lên bốn ơn để khuyên
nhủ và răn dạy mọi người, nhất là ơn cha mẹ thật là cao cả. Sự sống của chúng
ta
ai là người con hiếu kính thì ăn nên làm ra công thành danh toại, chứ ít khi
có người con nào bất hiếu mà làm nên sự nghiệp. Đa số người con bất hiếu đều
dính vào vòng tệ nạn xã hội, cha mẹ mình mà còn không biết ơn nghĩa, thử hỏi
làm sao mở rộng tấm lòng giúp đỡ người khác. Do đó người con bất hiếu luôn thất
bại trong cuộc sống, mà thường xuyên bị cạm bẫy cuộc đời cuốn trôi nên sống
trong đau khổ làm mê. Phật dạy niềm vui của bậc hiền Thánh là biết hiếu kính với
cha mẹ, nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng cúng dường cho người tu là có phước,
nên nghe đồn ở đâu có linh ứng một chút thì đùng đùng kéo đến để cúng dường bỏ
mặc cha mẹ mình ở nhà chịu khổ sở thiếu thốn, tu như vậy là đi ngược lại lời Phật
dạy
. Trên đời này ai còn đủ mẹ cha là một điều thật hạnh phúc lớn lao, vì ta
còn có cơ hội báo hiếu chăm lo phần vật chất lẫn tinh thần, giúp cha mẹ an vui
trong tuổi già nhờ biết quy hướng Tam bảo. Người con hiếu trước tiên phải biết
vâng lờikính trọng cha mẹ cho nên ca dao có câu:

“cá không ăn muối cá ươn,
con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.

 Do đó, thương cha mến mẹ con làm, không sợ tốn kém không nề gian nan.
Công cha nghĩa mẹ khó đền, vào thưa ra hỏi mới là đạo con. Biết quan tâm lo lắng
giúp đỡ để cho cha mẹ được an vui và một lòng tôn kính quý trọng. Kinh Bổn sự
Phật dạy:

 Giả sử có một người nào một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, suốt đời
không bao giờ dừng nghỉ, lại còn cung cấp cho cha mẹ đầy đủ các thức ăn, vật dụng
thuốc thang đến trăm ngàn kiếp cũng không thể trả hết công ơn của cha mẹ. Còn nếu,
khuyên cha mẹ biết quy y Tam bảo giữ gìn năm điều đạo đức không làm tổn hại cho
tất cả chúng sinh, đó là cách báo hiếu cao cả nhất vì giúp cho cha mẹ sống an
vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Trước đó người dưỡng nuôi thái tữ là dì
mẫu muốn xuất gia để sống đời giải thoát, đã xin Phật nhiều lần mà không được
chấp nhận. Ngài A Nan mới nhắc lại công ơn nuôi dưỡng thì Phật mới nói rằng, ta
đã hướng dẫn cho dì mẫu quy y Tam bảo giữ năm giới cấm, tu mười điều lành như
thế là đã trả ơn cho dì mẫu rồi. Nhưng cuối cùng Phật mới cho xuất gia sau nhiều lần khuyến dạy giữ tám điều tôn
kính
chư Tăng. Xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ phân chia giai cấp thống trịnô lệ,
người nữ không có quyền tham dự vào công việc xã hội, huống hồ là tham gia vào
sự tu học của bậc hiền thánh. Và cuối cùng khuyên cha mẹ được xuất gia, đó mới
là người con đại hiếu, cha mẹ biết tu hành để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành
an vui hạnh phúc. Hôm nay nhân nghĩ đến công khó nhọc của mẹ suốt một đời
con trẻ, con có chút lòng thành nguyện cầu hồng ân Tam bảo luôn gia hộ cho mẹ ở
đời sống kế tiếp cùng tất cả chúng sinh luôn sống với nhau bằng trái tim yêu
thương
hiểu biết.

 KINH NHÂN QUẢ
PHƯỚC ĐỨC 

 Tôi được
nghe như vầy
một thời Thế tôn an trú tại thành Xá Vệ nơi rừng cây Kỳ Đà vườn
ông Cấp Cô Độc. Đêm hôm đó trời đã khuya bổng cả khu vườn hiện lên ánh hào
quang
sáng chói, bởi một chư Thiên muốn gặp Phật để tham vấn đạo lý. Sau khi
đảnh lễ đức Thế tôn xong, chư Thiên mới ngồi sang một bên rồi thưa hỏi rằng:

 Chư Thiên
cùng nhân loại làm thế nào để được sống bình yên và hạnh phúc? Kính xin Thế tôn
chỉ dạy.

 Lành thay!
Lành thay! Thiên nhân khéo biết cách thưa hỏi ta sẽ vì ngươi chỉ dạy mười
phương
pháp gieo trồng phước đức để làm lợi lạc cho trời người trong hiện tại
mai sau:

 1-Phương pháp thứ nhất là

 Luôn gần gũi người hiền
 Lánh xa kẻ xấu ác
 Tôn kính bậc đáng kính
 Là phước đức lớn nhất.

 2-Phương pháp thứ hai là

 Biết chọn môi trường
tốt
 Để làm các việc lành
 Cùng hướng về đường
thiện
 Là phước đức lớn nhất

 3-Phương pháp thứ ba là

 Siêng học lại giỏi nghề
 Biết giữ gìn đạo đức
 Biết nói lời ái ngữ
 Là phước đức lớn nhất.

 4-Phương pháp thứ tư là

 Biết hiếu dưỡng cha mẹ
 Thương yêu gia đình
mình
 Lại làm nghề thích hợp
 Là phước đức lớn nhất.

 5-Phương pháp thứ năm là

 Sống vui vẻ bố thí
 Giúp gia đình người
thân
 Bình đẳng tùy theo
duyên
 Là phước đức lớn
nhất. 

 6-Phương pháp thứ sáu là

 Tránh không làm điều ác
 Không say sưa nghiện
ngập
 Siêng năng làm việc lành
 Là phước đức lớn nhất.

 7-Phương pháp thứ bảy là

 Biết khiêm cung lễ độ
 Để học hỏi điều hay
 Nhớ ơn và biết đủ
 Là phước đức lớn nhất.

 8- Phương pháp thứ tám là

 Biết kiên trì phục thiện
 Thân cận bậc hiền Thánh
 Siêng năng cùng tu học
 Là phước đức lớn nhất.

 9-Phương pháp thứ chín là

 Sống tinh cần tỉnh thức
 Biết quay lại chính mình
 Để sống đời giải thoát
 Là phước đức lớn nhất.

 10- Phương pháp thứ mười là

 Làm việc cùng mọi người
 Tâm không hề thay đổi
 Não phiền dứt, an nhiên.
 Là phước đức lớn nhất.

 Sau đó
Phật xác định bằng một bài kệ:

 Ai sống được như vậy
 Ở đâu cũng hạnh phúc
 An nhiêntự tại
 Vì phước đức vẹn toàn.

 Phật vừa
dứt lời chư Thiênđại chúng đồng hoan hỷ vui vẻ cùng phát nguyện làm theo.
Bản kinh Phước Đức ngắn gọn, súc tích, nghĩa lý rõ ràng có thể đưa vào kinh
nhật tụng, để hàng Phật tử chúng ta đọc tụng hằng ngày. Chúng tôi mạnh dạn đặt lại
tên là Kinh Nhân Quả Phước Đức để cho được đầy đủ ý nghĩa hơn. Duyên khởi để
Thế Tôn ban pháp thoại này, phát xuất từ lời thỉnh cầu của một vị Trời mong
muốn biết được cách thức thực hành gieo trồng phước đức nhằm xây dựng đời sống
bình an hạnh phúc, trong hiện tạimai sau.

 Chư thiên
là loài được xem là có phước đức hơn hết, so với các loài trong sáu đường luân
hồi
sinh tử mà còn cầu thỉnh đức Thế Tôn nói về cách thức gieo trồng phước đức
để biết cách tích lũy kiện toàn phước báo cho tự thân, huống gì loài người
nhất là hàng hậu học chúng ta

 Kinh là
gì? Kinh là lời Phật dạy bằng tiếng Phạn nói cho đủ là Tu đa la, người Trung
Hoa dịch là khế kinh. Khế kinh có nghĩa là khế lý và khế cơ.

 Khế lý là
sao? Là luôn đúng với lý giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức là dù trải qua
bao nhiêu thời đại, bao nhiêu sự thăng trầm của cuộc sống, nhưng, lời Phật dạy
vẫn giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân, mà vươn lên vượt qua cạm bẫy
cuộc đời để sống bình yên và hạnh phúc

 Thứ đến là
khế cơ là khế hợp với tất cả mọi người dù là người cổ xưa hay là người văn minh
hiện đại, đều có thể áp dụng tu hànhchuyển hóa nỗi khỗ niềm đau thành an
vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Ngày xưa Phật nói kinh là tùy theo căn
trình độ và sự hiểu biết của nhiều người, bởi chúng ta huân tập nghiệp nhân
không đồng nên Phật nói kinh là tùy bệnh cho thuốc. Chúng ta có nhiều bệnh,
Phật có nhiều thuốc, cho nên ai hợp với thuốc nào, thì uống thuốc đó mau lành
và mau hết bệnh.

 Người nói
lại kinh này là ai, là thầy A Nan. Ngài là một trong mười vị đệ tử xuất cách
nhất thời Phật còn tại thế, thầy có tài nhớ giỏi và nói lại không thiếu một
chữ, nhờ có thầy xin Phật mà phái nữ được xuất gia tu tập bình đẳng với nam
giới. Đúng ra ngày nay chư Ni phải thờ Ngài A Nan làm tổ khai sơn mới đúng.

 Bài kinh
được nói tại Tịnh xá Kỳ Viên rừng Kỳ Đà vườn ông Cấp Cô Độc thành Xá Vệ. Kỳ Đà
là tên của thái tử con vua Ba Tư Nặc, thái tử Kỳ Đà được sinh ra đúng ngày vua
Ba Tư Nặc
chiến thắng quân giặc phiến loạn. Nhân ngày chiến thắng đó mà đặt tên
cho con mình là Kỳ Đà có nghĩa là chiến thắng. Cấp Cô Độc là vị đại thí chủ nỗi
tiếng thời Phật, ngoài việc hộ trì Tam bảo cúng dường tứ sự cho chư Tăng ngài
còn san sẻ giúp đỡ cho người bất hạnhđiều kiện, nên được người đời ban tặng
cho danh hiệuCấp Cô độc. Ngài cúng dường chư Tăng và giúp đỡ kẻ nghèo khổ
bần cùng, y như là người thân của mình.

 Theo lịch
sử
sau khi ngài gặp Phật và có lòng tin lớn đối với Tam Bảo, cho nên Cấp Cô Độc
mới phát tâm mua một miếng đất đẹp xây dựng Tịnh xá để có chỗ cho chư Tăng tu
học
và hướng dẫn cho mọi người cùng tu theo. Tìm mãi chẳng thấy một miếng đất
nào vừa ý để xây dựng Tịnh xá, chỉ có miếng đất của thái tử Kỳ Đà con vua Ba Tư
Nặc
là đầy đủ điều kiện đẹp đẽ hùng vĩ và trang nghiêm. Nhưng thái tử Kỳ Đà
một người giàu có đâu cần tiền bạc để mà bán đất, cho nên khi Ngài Cấp Cô Độc
tới đặt điều kiện mua đất làm Tịnh xá cho Phật, Thái tử nói giá trên trời dưới
đất
để cho ông Cấp Cô Độc tìm chỗ khác mà mua.

 “Nếu ông
đủ khả năng lấy vàng trải đầy đất thì ta sẽ bán cho ông”. Không ngờ lời nói
chơi đó đã trở thành sự thật. Sợ Thái tử đổi ý nên sáng hôm sau ông Cấp Cô Độc
đã tranh thủ cho người chở đầy các xe vàng đến để lót vào đất.

 Đang lúc
mọi người lót vàng vào đất thì ông Cấp Cô Độc mới đứng trầm tư suy nghĩ, thái
tử Kỳ Đà
tưởng ông ta thối Bồ đề tâm nên mới đến hỏi:

 Bộ ông hối
hận
hay sao mà đứng ngẫn người ra như thế?

 Cấp Cô Độc
trả lời, tôi đang suy nghĩ nên lấy số vàng ở kho nào để lót cho được đầy đủ số
đất còn lại, mà khỏi phải mất thời gian.

 Thái tử Kỳ
Đà
rất đổi ngạc nhiên, không biết Phật là ai mà ông này dám bỏ ra gần hết gia
tài
để mua đất làm Tịnh xá cúng dường cho Phật.

 Cấp Cô Độc
lúc bấy giờ mới nói Thái tử không biết đó sao? Phật trước kia là một hoàng thái
tử
được kế thừa ngôi vua, nhưng Ngài dám từ bỏ hết tất cả cung vàng điện ngọc,
vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ, để tu hành sống đời đơn giản, tìm ra thân
phận
của kiếp người, biết cách làm chủ bản thân để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ngài đã mở ra một trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất chưa từng có trong
lịch sử
nhân loại từ trước đến nay, đi ngược lại các tập tục của thời xa xưa,
mà không bị lệ thuộc vào đấng thần linh thượng đế ban phước giáng họa. Ngài đã
thật sự giác ngộ giải thoát, không còn bị sự trói buộc bởi các dục lạc thế gian
như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung, mặc sướng, ngủ nhiều.

 Nghe tới
đây thì thái tử Kỳ Đà như được rót mật ngọt vào tai cảm thấy trong lòng bình
yên hạnh phúc làm sao đâu, liền phát tín tâm tôn kính đức Phật. Thái tử nói với
Cấp Cô Độc, ông khỏi cần phải lót vàng vào đất nữa, bao nhiêu đây là đủ rồi.
Đất là phần của ông cúng dường, rừng cây hoa lá cùng hồ ao suối nước mát trong
là phần của tôi xin được cúng dường cho Phật. Cho nên ngày hôm nay khi chúng ta
nghe bài kinh nào Phật nói tại thành Xá Vệ, thì ta có thể biết được tích truyện
của thái tử Kỳ Đà và ông Cấp Cô Độc hai người đồng phát tâm cúng dường.

 Cấp Cô
Độc
cả một đời kính tin Tam bảo nên làm việc bố thí cúng dường cho chư Tăng ni
không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, lại hay giúp đỡ người nghèo khó
độc
bệnh hoạn nên được mọi người tặng cho danh hiệuCấp Cô Độc. Cấp có nghĩa
là cho, là giúp đỡ san sẻ người bần cùng cô độc, bệnh hoạn tàn tật không người
nuôi dưỡng. Vậy mà, có lúc gia đình ông Cấp Cô Độc bị thiên tai dẫn đến tán gia
bại sản, đến khi cả nhà ăn cháo nhưng ông vẫn một lòng tín tâm Tam bảo để cúng
dường
chư Tăng ni.

 Đức Phật
biết được hoàn cảnh gia đình ông lúc này đang gặp khó khăn quá mức, nên khuyên
nhủ ông hãy thôi cúng dường mà dùng vật thực đó để nuôi gia đình. Do lòng tin
sâu đối với Tam bảo, ông vẫn duy trì sự cúng dường hằng ngày. Nhờ công đức cúng
dường
Tam bảo với lòng thành quá lớn, cho nên sau cơn mưa trời lại sáng một
thời gian sau gia đình ông được phục hồi tài sản trở lạigiàu có hơn xưa rất
nhiều. Theo sử liệu ghi lại, Phật ở tại Tịnh xá của ông và Thái tử cúng dường
suốt hai mươi lăm mùa an cư kiết hạ, trong suốt bốn mươi chín năm hoằng dương
chánh pháp
.

 Trong lịch
sử
Phật giáo, Cấp Cô Độc là tấm gương sáng ngời về hạnh bố thí cúng dường Tam
bảo
hết lòng cưu mang giúp đỡ nhiều người bất hạnh, với tinh thần thương yêu
bằng trái tim hiểu biết, luôn sống vì lợi ích tha nhân. Ngài là một cư sĩ tại
gia
xứng đáng được người đời tặng cho danh hiệu vẹn toàn về hai mặt phước và
đức.

 Làm phước,
bố thí cúng dường hay nâng đỡ cho nhau là con đường dẫn đến tình yêu thương
nhân loại, là cách thức để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc,
nhằm giúp cho ta và người cùng ngồi lại bên nhau, để được sống bằng trái tim
yêu thươnghiểu biết. Trong dân gian Việt Nam có câu:

 “ ăn thì hết, cho thì
còn.”

 Tại sao có
chuyện lạ đời như vậy, câu này nghe nói như ngược đời nhưng thực tế quả thật
không sai chút nào, cái gì ta đang hưởng thụ tiêu xài cho riêng mình thì không
còn, cho nên nói ăn thì hết. Còn cái gì ta đang có, mà dám đem ra giúp cho
người, thì cái đó mới chính là của ta, cho nên mới nói cho là còn. Giống như
người có tiền gửi vào ngân hàng, khi nào cần, thì ta rút ra xài. Bố thí cúng
dường
hay san sẻ giúp đỡ là nấc thang đầu tiên, giúp mọi người gần lại bên nhau
vì sự yêu thương quý mến, nên ta dễ dàng cảm thôngtha thứ, khoan dungđộ
lượng
, do đó thấy ai cũng là người thân người thương của mình.

 Đạo lý
nhà Phật giúp ta mở rộng tấm lòng từ bi sáng ngời về hạt giống yêu thương, từ
việc bố thí giúp đỡ chúng sinh bình đẳng qua nhiều hình thức. Từ đó, ta thấy
việc làm bố thí chia sẻ quan trọng ở tâm chân thành, nhờ vậy chúng ta sống với
nhau
yêu thươnghiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.

 Bố thí
cúng dườngcon đường dẫn đến tình yêu thương nhân loại ngày càng thêm gắn bó
sâu sắc với nhau, bởi sự giúp đỡ sẻ chia làm giảm bớt ân oán hận thù. Bố thí
cúng dường giúp đỡ sẻ chia là nấc thang đầu tiên giúp các vị Bồ tát từng bước
tiến lên con đường Phật đạo. Nhờ đóng góp giúp đỡ sẻ chia mà tâm ta an lạc bình
yên hạnh phúc, nên ta thấy ai cũng là người thân người thương của mình mà sống
với nhau bằng trái tim hiểu biết.

 Nếu nói
về làm phước bố thí cúng dường thời Phật còn tại thế, thì khó có ai có thể
kịp
với cư sĩ Cấp Cô Độc. Khoảng cuối đời, cư sĩ Cấp Cô độc bị bệnh nặng. Được
tin, Phật dạy hai thầy Xá Lợi PhấtA Nan trực tiếp đến thăm bệnh ông. Hai
thầy đã hỏi thăm bệnh tình của cư sĩ như thế nào, đã được thuyên giảm chút nào
hay không?

 Cấp Cô Độc
trả lời:

 Dạ thưa
hai thầy bệnh tình của con không hề giảm bớt mà còn nặng thêm, cơ thể của con
đau nhức rã rời khó bề qua khỏi.

 Nhân đó,
thầy Xá Lợi Phất mới chỉ dạy pháp tu rốt ráo cho cư sĩ quán niệm về Phật, Pháp,
Tăng. Cư sĩ nên quán như vầy:

 Phật là
bậc giác ngộ chân chánh, là người tỉnh thức, là người đã vượt qua cạm bẫy cuộc
đời
, là người thấy đúng như thật, biết rõ sự thật hư của cuộc đời, là bậc đáng
được tôn kính và xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của mọi người.

 Pháp là
những lời dạy vàng ngọc của Ngài, hay giúp cho mọi người chuyển hóa nỗi khổ
niềm đau thành an vui hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

 Tăng là
đoàn thể sống hòa hợp hạnh phúc dưới sự chỉ dạy của Phật vừa học, vừa tu, vừa
hướng dẫn cho mọi người biết được chân lý của cuộc đời mà cùng tu theo. Cư sĩ
thường xuyên quán niệm như thế thì sẽ được tăng trưởng phước báo và dần hồi,
giảm bớt tội chướng cùng với các phiền não khổ đau, sau khi mạng chung sẽ được
tái sinh vào các cõi trời người mà hưởng phước an vui hạnh phúc. Và cư sĩ nên
tinh cần quán chiếu soi sáng như sau:

 Con mắt
thấy sắc không bị sắc làm lay động, thấy chỉ là thấy, thấy một cách rõ ràng
không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết như thế đó, không một niệm nghĩ suy
phân biệt, cái này đẹp hay cái kia xấu, vì con mắt và hình sắc không phải là
tôi và của tôi. Tương tự tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.

 Cư sĩ hãy
nên xem xét quán sát rằng mọi pháp đều do nhân duyên sinh và nhân duyên diệt,
không có thực thể cố định.

 “ Cái
này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không.”

 Trong
thân này do bốn chất đất nước gió lửa hòa hợp lại mà hình thành, không có gì là
thực thể cố định cả, cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật, ai chấp
vào đó thì sinh ra luyến ái bám víu mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã
rồi muốn chiếm hữu, ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh. Do vô minh
sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh
ra phân biệt có đủ thứ ta người. Do có sự phân biệt ta người, mà sinh ra xúc
chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái,
luyến tiếc và từ đó bám víu dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết khổ
não
ưu sầu buồn lo đủ thứ.

 Cư sĩ nên
tinh cần quán chiếu sâu sắc như thế, cái gì có hình tướng đều vô thường bại
hoại
cho nên không có thật ngã. Nghe đến đây cư sĩ Cấp Cô Độc nước mắt ràn rụa
vì đã nghe được điều chưa từng nghe, từ trước đến nay.

 Ngài A Nan
thấy thế, tưởng cư sĩ bất an không kham nỗi giáo pháp siêu tuyệt giải thoát.
Nên mới hỏi Cấp Cô Độc cư sĩ vì sao thế?

 Lúc này
Cấp Cô Độc mới nói trong nghẹn ngào xúc động, không ngờ đến giờ này con mới
được nghe giáo pháp thậm thâm vi diệu sâu xa như thế, nên con mới thể nhập được
lời dạy của Phật, mà rơi nước mắt.

 Ngài A
Nan
nói, giáo pháp này đức Phật thường xuyên hướng dẫn cho chư Tăng Ni.

 Nếu vậy,
xin phiền thầy nói lại với Phật hãy nói pháp giác ngộ giải thoát này để hướng
dẫn cho hàng cư sĩ chúng con được biết để mà tu theo. Nói xong, Cấp Cô Độc cảm
thấy
trong lòng an ổn nhẹ nhàng vì đã thâm nhập được đầy đủ pháp giác ngộ giải
thoát
. Sau khi hai thầy Xá Lợi PhấtA Nan ra về, một hồi sau Cấp Cô Độc an
nhiên
xả bỏ xác thân và được sinh về cõi trời thứ Ba Mươi Ba để hưởng phước báo vô lượng vô biên, muốn gì được đó.

 Kinh
Phước Đức nằm trong tạng nguyên thủy thuộc Tiểu Bộ Kinh nói cho đầy đủ là Kinh
Nhân Quả Phước Đức.

 Kinh này
do Phật nói, vậy Phật là gì? Phật nói cho đủ là Phật đà có nghĩa là người giác
ngộ
, người tỉnh thức, người luôn sống bằng trái tim yêu thươnghiểu biết.
Nói gọn lại là Phật.

 Ở đây nhân
vật chính thưa hỏi đạo lý là người trời, đại diện cho chư thiênnhân loại
thế gian này. Vì muốn lợi ích cho nhiều người ở thế gian, mà chư Thiên cõi trời
đến thưa hỏi đạo lý với đức Phật. Thường thì chúng ta hay dùng hai chữ phước và
đức đi đôi với nhau, nhưng hai từ này có ý nghĩa khác nhau. Phước là việc làm
bên ngoài như giúp đỡ một ai đó, đức là cái tốt ngay bên trong như khi bị người
mắng chửi, ta vẫn bình thản an nhiên không có tâm bực bội khó chịu hay buồn
phiền
người kia.

 Vậy thế
nào là phước? Phước là những việc làm từ bên ngoài phát xuất từ ý nghĩ, lời nói
rồi dẫn đến hành động như bố thí hay giúp đỡ một ai đó, đem đến an vui hạnh
phúc
, trong hiện tạimai sau. Nếu ta bây giờ không biết gieo trồng phước đức
mà muốn hưởng phước báu là chuyện vô lý không thể được.

 Ta nên nhớ
rằng làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước, biết rõ được cội
nguồn của an vui hạnh phúc thì ta càng làm phước nhiều hơn nữa. Một ngày ta có
mặt trong cuộc đời là một ngày ta phải sống làm sao có ích cho mình và người,
ta cố gắng không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu
thốn
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nợ nần chồng chất, trong gia đình sống
không biết kính trên nhường dưới thường xuyên gây gỗ bất hòa với nhau, thì ta
gọi là người thiếu phước đức.

 Một là vì
ta cung kính tôn trọngbố thí cúng dường, hai là vì thương người mà ta muốn
giúp đỡ chia sẻ nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt khó khăn bất hạnh. Người làm
phước là người biết làm việc thiện lành tốt đẹp, luôn giúp đỡ sẻ chia khi có
nhân duyên, khi có điều kiện, nên rất được mọi người quý mến ưa thích gần gũi.
Người đã từng bố thí hay giúp đỡ nhiều cho nhân loại, thì lúc nào cũng được
quyền cao chức trọng và giàu sang danh giá.

 Còn một
người chuyên siêng năng tinh cần tu hành, chuyển hóa nội tâm của mình được
trong sạch nhờ biết giữ gìn giới pháp, tu tập thiền định để dứt trừ phiền não
tham sân si. Người như vậy gọi là người có đức vì không bị tham sân si trói
buộc
. Vậy tóm lại cho dễ hiểu bản thân mình tốt thì gọi là đức, còn làm lợi ích
cho người khác thì gọi là phước.

 Có phước
mà không có đức thì người này dễ dàng làm tổn hại cho nhiều người khi có quyền
hành trong tay, lịch sử nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Như vua Tần Thủy Hoàng và nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu khác trên thế gian
này.

 Ở đây bài
kinh
này đức Phật dạy cách thức làm phước và tu đức, cho nên gọi đầy đủ là Kinh
Nhân Quả Phước Đức. Có phước thì được hưởng mọi nhu cầu vật chất đầy đủ, nhờ
vậy mà ta khỏi lo cơm áo gạo tiền, khỏi phải bận bịu lo lắng về kế sinh nhai,
do đó ta rất dễ dàng thuận lợi trong việc tu hành, để chuyển hóa nỗi khổ niềm
đau thành an vui hạnh phúc.

 Người có
đức thì không bị danh vọng, tiền tài, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ chi phối, cho
nên ta có thể làm lợi ích cho nhiều người mà không bị các thứ được mất, khen
chê, tốt xấu, khổ vui sai sử và làm ô nhiễm.

 Người có
phước đức là người có cuộc sống ổn định về phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Cuộc sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết khiêm cung lễ phép với người
trên, thương yêu đùm bọc giúp đỡ kẻ dưới, luôn hiếu thảo với ông bà cha mẹ,
biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác gần gũi bạn lành.

 Người đủ ăn đủ mặc
 Là người có phước đức
 Do đó nên ít lo
 Nhờ vậy mà dễ tu

 Là người
Phật tử chân chính chúng ta hãy nên biết phát huy hai mặt phước và đức song
hành với nhau, giúp người vì tấm lòng tôn kính quý trọng, không phân biệt kẻ
sang người hèn. Người có tấm lòng rộng mở nên mới có thể làm việc bố thí cúng
dường
một cách vô điều kiện, có nghĩa là bình đẳng trong việc giúp đỡ san sẻ
như trường hợp của ông Cấp Cô Độc. Nhờ vậy tuy giàu có bậc nhất trong thiên hạ,
mà ông vẫn khiêm cung thấp mình, trên thì cung kính tôn trọng người tu hành
chân chính, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, dưới thì bình đẳng bố thí giúp đỡ
yêu thương cùng với tất cả mọi người.

 Ông là
bậc mô phạm xứng đáng để hàng hậu học chúng ta bắt chước và làm theo, chính từ
tấm lòng rộng mở để nâng đỡ tha nhân, mà tâm ích kỷ của ta được chuyển hóa, tâm
tham lam được giải trừ, tâm bỏn sẻn được thay đổi, tâm từ bi được tăng trưởng,
tâm bao dungđộ lượng được phát triển, tâm buông xả được sáng ngời bằng trái
tim yêu thươnghiểu biết.

 Bây giờ
chúng ta từng tự thứ lớp đi vào nội dung chính của Kinh Nhân Quả Phước Đức
giải thích từng phần.

 Phật dạy:
Phương pháp thứ nhất:

 Luôn gần gũi người hiền,
 Lánh xa kẻ xấu ác,
 Tôn kính bậc đáng
kính
,
 Đó là phước đức lớn
nhất.

 Người Phật
tử
chân chính trước tiên phải biết thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính
và hay lánh xa kẻ xấu ác, vì sao?

 Vì, “ gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.”

 Thường thì
người hiền sống có nhân cách và đạo đức nhờ biết tu tâm dưỡng tánh, do đó chúng
ta
có dịp gần gũi người hiền để được học hỏi các điều hay lẽ phải nhờ vậy cuộc
sống của chúng ta càng ngày thăng hoa, hướng về điều thiện nhiều hơn do đó ít
vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.

 Bậc hiền
tài hay một vị thầy tâm linh, luôn sống có ý thức biết giữ gìn nhân cách sống
điều độ hài hòa không buông lung phóng túng, trước khi làm việc gì biết xét nét
kỹ càng và lường được hậu quả của nó. Do đó chúng taphước báo lớn lao mới
có dịp gần gũi thân cận các bậc hiền Thánh, các Ngài đã có khả năng chuyển hóa
những lỗi lầm và ta có thể học hỏi để biết cách thay đổi cuộc đời và sẽ là
gương tốt cho hàng hậu học chúng ta noi theo. Do có định tĩnh và sáng suốt nên
lòng từ bi rộng mở, các Ngài nhiệt tâm bền chí trong việc dạy dỗ hướng dẫn cho
chúng ta tu học đều phát xuất từ tấm lòng yêu thương chân thật, có khả năng
giúp cho chúng ta làm người tốt mà biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

 Bởi vậy
bậc hiền Thánh do kinh nghiệm một đời tu tập, đã từng học hỏi người xưa qua
sách vở và đã áp dụng vào trong thực tiển cuộc sống, nên gần gũi các Ngài ta sẽ
học được những lời dạy quý báu chân thành và bổ ích, nhờ đó chúng ta ít vấp
phải lỗi lầm mà không rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi.

 Thế gian
này là một trường đời hỗn hợp phức tạp vô cùng, vì sự phát triển của xã hội
từ lòng tham lam của con người, do đó cái ác luôn chiếm ưu thế làm cho con
người
ta điên đảo vọng động, mà làm những điều xấu xa tội lỗi để làm khổ đau
nhân loại. Vì thế người con Phật chúng ta cần phải biết khôn ngoan khéo léo
tránh xa những kẻ xấu ác, mà hay gần gũi các bậc hiền tài, nếu không, ta sẽ có
ngày mang họa vào thân.

 Bản thân chúng tôi là một bằng
chứng thiết thực mới bảy tám tuổi đã bị tiêm nhiễm bởi các thói hư tật xấu do
sống chung và ảnh hưởng môi trường xung quanh không tốt, nên tôi đã rơi vào hố
sâu của tội lỗi vì vậy hơn nữa đời người đã làm các việc xấu ác. Tôi may mắn
nhờ có được người mẹ nhân từ đức độ nên đã giúp cho tôi làm mới lại cuộc đời
nhờ tình thương bao la của bà. Nếu ta muốn làm người tốt thì trước tiên phải
biết gần gũi các bậc hiền Thánh, cố gắng học hỏirèn luyện nhân cách sống
ngay từ thuở ấu thơ. Một gia đình có nề nếp gia phong tốt luôn biết cách dạy dỗ
để giúp cho con em mình sống có chừng mựchiểu biết

 Chúng
ta
thử nghĩ xem có một số người chơi ma túy đang bị cơn nghiện sai khiến, sắp
sửa đi cướp giựt để có tiền mua ma túy. Thái độ đó rất xấu, nó làm cho con
người
ta vừa vật vả, vừa thèm khát khoái lạc nên đành phải hung dữ bạo động
trong mù quáng. Nếu như ta đang ở trong nhóm người như vậy thì ta đang hấp thụ
những chất độc hại, đang tàn phá cơ thể
của ta, đang làm cho người thân ta đau khổ, và gây thiệt hại cho nhiều người
khác.

 Do đó ta phải
biết khôn khéo lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận bậc hiền Thánh, và phải biết
tôn kính những bậc đáng kính. Nếu không thì cả thân và tâm của ta sẽ bị lây lan
bởi thói hư tật xấu. Ta muốn có sức khỏe thì phải biết đưa vào cơ thể các thực
phẩm
tốt cho thân và thực phẩm an toàn cho tâm. Ta phải tìm một môi trường
lành, môi trường có nhiều người tốt, trong đó mọi người đều có hướng thăng hoa
đạo
đức, có lý tưởng tốt để phục vụ nhân loại. Ở trong môi trường tốt, thực
phẩm
mà ta tiêu thụ sẽ trở nên hiền lành.

 Được sống với
nhiều người tốt mà cùng nhau tu học trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, quét
tước, dọn dẹp, lau chùi mình đều được bảo bọc bởi năng lượng hiền lành ấy, ta
sẽ được thân tâm an ổn nhẹ nhàng.

 Vậy thế
nào là kẻ xấu ác? Thích sát sinh hại vật, lường gạt trộm cướp, sống hưởng thụ
vui chơi quá đáng, lười biếng ỷ lại vào sự nghiệp của gia đình, bất hiếu với
cha mẹ và hay say sưa nghiện ngập. Tóm lại, sống chung với người xấu ác nếu
không
phải là bậc hiền Thánh thì trước sau gì cũng nhiễm thói quen xấu của họ,
chúng tacố gắng cách mấy đi nữa, cũng khó bề vượt qua. Như khi xưa mình
còn nhỏ thường tắm sông chung với nhau, nhưng nếu ta lên bờ trước thì các chú
bé khác vấy sình bùn vào người cho ta cùng dính bẫn. Cho nên khi các em còn
đang học nơi mái ấm nhà trường hãy khéo khôn ngoan sáng suốt chọn bạn tốt mà
chơi, bạn nào siêng năng chăm chỉ học hành lại hay khuyến khích giúp đỡ người
khác, sống biết hiếu nghĩa với cha mẹ thì ta hãy nên kết làm bạn thân với người
đó. Cho nên ca dao Việt Nam có câu:

 “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.”

 Quả thật
không sai chút nào. Ngoài việc lánh xa kẻ xấu ác chúng ta hãy thường xuyên thân
cận bậc hiền Thánh để được học hỏi những lời dạy quý báu. Ta luôn biết ơn
tôn kính người có công dạy dỗ chúng ta nên người, nhờ vậy chúng ta ý thức được
lời dạy của các Ngài mà cố gắng hành trìtu tập, để xứng đáng là người Phật
tử
chân chính.

 Phương
pháp
thứ hai là:

 Biết chọn môi trường tốt
 Để làm các việc lành
 Cùng hướng về đường
thiện
 Là phước đức lớn nhất.

 Ngoài việc
thân cận bậc hiền Thánh để học hỏi những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, ta
còn phải biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành nhằm giúp ích cho
mọi người và tự hoàn thiện chính mình. Trong thời đại văn minh sự tiến bộ tiện
nghi
về vật chất đã giúp cho con người tiết kiệm được thời gian rất nhiều,
nhưng ngược lại hoàn cảnh môi trường sống thường đem đến cho chúng ta những
điều không được hài lòng như ý, do đó ta phải biết chọn lựa môi trường tốt để
tu chí học hỏi mà làm các việc thiện lành tốt đẹp. Nhờ vậy ta đang tiến dần trên
con đường giác ngộ giải thoát, để vượt qua biển khổ sông mê mà vươn lên làm đẹp
cuộc đời.

 Thuở xưa
khi còn nhỏ nhà thầy Mạnh Tử sống gần nghĩa địa, thấy người đào huyệt, chôn rồi
khóc lóc người thân. Về nhà, thầy cũng bắt chước đào chôn lăn khóc. Bà mẹ thấy
vậy không hài lòng sợ con mình hư, nên tìm cách bán nhà và dọn ra chỗ gần chợ
để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần chợ thấy người mua bán cân đo đong điếm gian dối, thầy
về nhà cũng bắt chước làm theo. Bà mẹ thấy vậy, cảm thấy buồn trong lòng nên
nói chỗ này không phải để con ta ở, thế thì bà ta tiếp tục bán nhà và dọn đến
gần
trường học để ở. Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau siêng
năng học hỏi, lễ phép cung kính thưa hỏi thầy cô giáo. Về nhà thầy cũng bắt
chước đi thưa về trình lễ phép và siêng năng tinh cần học tập. Lúc này bà mẹ
Mạnh Tử mới thật sự vui lòng nói, chỗ này mới thật đúng là chỗ của con ta ở.

 Rồi một
hôm thầy Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi trông thấy, liền
cầm dao cắt đứt tấm vải trên khung mà nói rằng:

 Con đang đi học, mà bỏ học thì giống như mẹ
cắt đứt tấm vải này mà bỏ đi. Nghe lời mẹ dạy như thế, thầy Mạnh Tử liền ăn năn
hối hậnxin lỗi mẹ, từ đó về sau thầy siêng năng chăm chỉ học hành, không
dám lơ là chễnh mãng một ngày nào. Nhờ vậy mà sau này thầy trở nên bậc hiền tài
tiếng tăm mà dấn thân đóng góp cho gia đìnhphục vụ tốt cho xã hội. Cha
mẹ
là thầy giáo đầu tiên của con trẻ, một gia đình có nề nếp gia phong tốt, cha
mẹ
biết cách chăm sóc và dạy dỗ con cái đúng mức. Mẹ thầy Mạnh Tử ba lần dọn
nhà thay đổi chỗ ở, biết chọn môi trường tốt để giúp cho con mình ý thức
hiểu biết về giá trị sự sống, mà cố gắng siêng năng học hỏi nhờ đó khi lớn lên,
Ngài làm bậc mô phạm đạo đức trong xã hội.

 Do đó bậc
làm cha mẹ phải biết dạy con khi tuổi còn nhỏ, nếu thấy chúng tự tay giết hại
một con vật vô cớ thì ta phải chỉ dạy liền, giết hại là một việc làm xấu vì ai
cũng ham sống sợ chết mà, tại sao ta nỡ nhẫn tâm giết hại chúng. Thấy con mình
lấy đồ của ai mà không trả lại là bậc cha mẹ phải chỉ dạy cho con mình tường
tận, nhân trộm cắp sẽ dẫn đến quả báo nghèo cùng khốn khổ trong hiện tạimai
sau
.

 Có một con
sư tử mẹ rất thương con, nên mỗi lần đi săn đều ngặm cổ con mình cùng theo.
Trong lúc rượt con mồi sư tử mẹ nhảy qua tảng đá, vì muốn há miệng để chụp con
mồi mà nó vô tình làm cho sư tử con rớt xuống vực thẳm. Nhìn xuống vực sâu mà
không thấy con mình đâu hết, nó buồn bả tiếc nuối thương con trong nỗi khổ niềm
đau. Không biết trời xuôi đất khiến như thế nào mà con sư tử con vẫn còn sống,
nó chỉ bị thương nhẹ và được đàn cừu chăm sóc, cừu mẹ coi nó như là con của
mình nên nuôi nó tử tế nhờ vậy nó sống được, nhờ sự đùm bọc giúp đỡ của anh em
nhà cừu. Nó lớn nhanh theo thời gian nhờ môi trường mới và hòa đồng vào nhịp
sống của đàn cừu nên nó trở nên hiền từ như các con cừu non, mặc dù bản chất
là con sư tử.

 Vài năm
sau đó sư tử mẹ có dịp đi ngang qua vùng thảo nguyên của đàn cừu, từ xa sư tử
mẹ đã thấy sư tử con nằm giữa bầy cừu. Sư tử mẹ rất đổi ngạc nhiên, tại sao có
con sư tử hiền hậu ở trong bầy cừu. Bởi vì bản chất của con sư tử là ăn mồi
sống và nó sẽ tấn công bất cứ con vật nào để nuôi sống bản thân nó. Trong dòng
suy nghĩ mong lung, nó nhớ lại đứa con cách nay vài năm đã bị rơi xuống vực
sâu, không lẽ là con ta còn sống sót đó sao? Nghĩ vậy nó mon men đến gần
không hề cố ý vồ một con cừu nào hết, khi thấy sư tử xuất hiện cả bầy cừu đều
hoảng loạn bỏ chạy. Sư tử mẹ chỉ cố tình đuổi theo sư tử con và cuối cùng đã
gặm được cổ nó và chạy đến bên bờ suối, rồi thả xuống để cho nó uống nước.

 Câu
chuyện
ngụ ngôn trên được dừng lại nơi đây để chúng ta cùng tham khảosuy
gẫm
. Môi trường tốt hay xấu rất quan trọng trong đời sống của chúng ta, nếu ta
có đầy đủ phúc duyên được sống gần các bậc hiền đức để học hỏirèn luyện bản
thân
, nhờ vậy ta có thể phát triển theo chiều hướng tích cực, mà ta có thể giúp
đỡ gia đình và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội. Đời sống của loài cừu
chỉ an phận với đồng cỏ non trước mắt, nên cuộc sống của chúng còn rất nhiều
giới hạn. Muốn khai thác tiềm năng vô hạn của con người để được sống yêu thương
hơn, ta phải quyết tâm biết chọn môi trường tốt để có cơ hội dấn thân và phục
vụ
cùng hướng về việc làm có ích cho nhân loại.

 Phương
pháp
thứ ba là:

 Siêng học lại giỏi
nghề
 Biết giữ gìn đạo đức
 Biết nói lời ái ngữ
 Là phước đức lớn
nhất.

 Siêng năng
chăm chỉ học hành biết nghe lời thầy cô giáo là trách nhiệm của chúng ta khi
còn ngồi trong ghế nhà trường. Trong thời gian đang học quan hệ bạn bè rất cần
thiết
, nếu ta có bạn luôn siêng năng chăm chỉ thì ta cùng nhau chăm chỉ học
hành
, cùng động viên khuyên nhủ nhau mà cố gắng học tốt. Khi lớn lên chúng biết
chọn nghề nghiệp chân chánh và phải siêng năng tận tụy với nghề nghiệp đó.

 Người
con Phật phải biết tránh những nghề nghiệp làm tổn hại đến tất cả chúng sinh.
Như nghề mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em, mua bán vũ khí, mua bán thuốc độc, mua
bán
rượu xì ke ma túy, và nghề trực tiếp giết hại các loài súc vật. Muốn được
như vậy thì ta phải đồng hướng về Tam bảo quy y Phật pháp Tăngphát nguyện
gìn giữ năm điều đạo đức. Siêng học lại giỏi nghề hay học đi đôi với hành. Vậy
học là gì? Hành là sao?

 Học là
tiếp thu những kiến thức hiểu biết cơ bản của nhân loại qua mấy ngàn năm lịch
sử
con người. Chúng ta có thể học qua trường lớp, qua sách vỡ, học ở bạn bè,
học ở gia đình và học ở thực tế trong cuộc sống. Mục đích việc học là nâng cao
về sự hiểu biết của con ngườivạn vật trên thế gian này, để biết được sự
thật
giả, tốt xấu, đúng sai, phải quấychúng ta có thể áp dụng vào trong đời
sống hằng ngày. Muốn hiểu biết được bản chất của cuộc đời ta phải siêng năng
học
hỏi, chịu khó nghiên cứu tìm tòi để sau khi khôn lớn trưởng thành ta biết
vận dụng việc học của mình mà làm tròn trách nhiệm đối với gia đình và dấn thân
phục vụ tốt cho xã hội.

 Sau khi
học xong các hiểu biết về kiến thức, bắt đầu giai đoạn tiếp theo chọn ngành
nghề để làm việc. Có nhiều nghề đem lại lợi ích cho tha nhân mà không làm tổn
hại
cho ai, như nghề thầy giáo, nghề chữa bệnh, nghề gieo trồng sản xuất và
giáo dục tâm linh để hoàn thiện nhân cách đạo đức, giúp mọi người tự tin chính
mình và tin sâu nhân quả.

 Người
Phật tử chân chính sẽ biết khôn ngoan sáng suốt chọn lựa nghề thánh thiện. Vậy
ngày nay có nhiều người cha mẹ cho ăn học đàng hoàng đã tốt nghiệp đại học,
nhưng sau khi học xong chẳng đem cái học đó để làm sự nghiệp mà sinh sống. Rốt
cuộc
hoang phí tiền bạc của cha mẹ hơn hai mươi năm nuôi dưỡng, mục đích của
việc học là để nâng cao trinh độ hiểu biếtứng dụng vào trong đời sống hằng
ngày
. Ỷ lại nhờ vã vào người khác là căn bệnh lười biếng của một số người sống
thiếu ý thứctrách nhiệm của mình. Những kẻ như thế khó bao giờ thành đạt
trong xã hội, vậy thử hỏi làm sao mình có đủ khả năng nuôi sống bản thân, giúp
đỡ gia đìnhphục vụ nhân loại.

 Để việc
giao tiếp đối tác quan hệ trong cuộc sống cho được vuông tròn tốt đẹp, ta cần
phải
nói lời hòa nhã dịu dàng dễ nghe, nhờ biết quy hướng Tam bảo gìn giữ năm
điều đạo đức. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, ta không trực tiếp
giết hại hay xúi bảo người khác giết hại. Ta không tự ý lấy đồ của người khác,
khi không được cho phép hoặc hiên ngang cướp giật công khai. Ta sống chung thủy
một vợ một chồng, không ngoại tình lang chạ với người khác. Ta không nói lời
hằn học nặng nề hay mắng chửi người khác, cho đến ta không đưa các độc tố vào
cơ thể như rượu xì ke ma túy, vì nó làm cho ta điên cuồng mê muội. Ta siêng
năng tinh cần học hỏi và biết phát huy nghề nghiệp đúng mức, nhờ vậy ta sống có
nhân cách và đạo đức, nên thân tâm được thanh tịnh trong sáng mà ta an ổn nhẹ
nhàng.

 Phương
pháp
thứ tư là:

 Biết hiếu dưỡng cha
mẹ
 Thương yêu gia đình
mình
 Lại làm nghề thích
hợp
 Là phước đức lớn
nhất.

 Hiếu dưỡng
với cha mẹtrách nhiệm và bổn phận của một con người, ta có thân này là nhờ
công ơn của cha mẹ. Mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng vất vả để nuôi ta khôn
lớn. Gia đình là chỗ nương tựa chính đáng giúp ta trưởng thành và nên người,
nhờ cha mẹ biết cách nuôi dạy khôn khéo tập cho con mình biết sống tự lập, có
một nhận thức đúng đắn và sống không ỷ lại vào gia đình. Riêng về bổn phận làm
con chúng ta biết nghe theo lời của cha mẹ cung kính hiếu thảobiết ơn.

 Chọn nghề
nghiệp để làm việc là một điều rất quan trọng cần thiết trong cuộc sống. Trong
xã hội, tùy theo địa vị mà có chức năng và nghề nghiệp khác nhau, cho nên người
con Phật chúng ta cần phải biết khôn ngoan sáng suốt lựa chọn cho mình một nghề
nghiệp chân chính. Nghề nghiệp chân chính không làm tổn hại một ai, giúp ta
sống an vui hạnh phúc vì có cơ hội phục vụ tốt cho nhiều người. 

 Ngành
nghề trong xã hội rất đa dạng và phong phú, có những nghề càng làm càng có
phước, có những nghề càng làm càng có tội. Nghề có phước như xây dựng trường
học, cầu cống đường xá, y tế bác sĩ, bảo vệ môi trường, trồng trọt.v.v..Nghề có
tội như trực tiếp sát sinh hại vật, mua bán vũ khí, mua bán trẻ em phụ nữ, mua
bán
rượu và các chất xì ke ma túy là những nghề càng làm, càng gây tạo thêm
nhiều tội lỗi. Quả báo trong hiện tại bị bệnh hoạn chết yểu, bị tù tội và si mê
cuồng loạn. Sau khi chết bị đọa ba đường dữ để chịu khổ báo hành hạ trong địa
ngục
và làm quỷ đói súc sinh, để trả nợ tiền kiếp oan gia.

 Trong bầu
vũ trụ bao la này từ con người cho đến muôn loài muôn vật, đều sống nương nhờ
lẫn nhau theo nguyên lý nhân duyên quả mà bảo tồn mạng sống. Cái này có thì cái
kia có, cái này không thì cái kia không. Do đó chúng ta phải có trách nhiệm
bổn phận đùm bọc yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, bằng với trái tim hiểu biết. Một
con người muốn hoàn thiện chính mình, trước tiên ta phải biết hiếu kính với cha
mẹ
, bởi vì người có công sinh thành dưỡng dục nuôi ta khôn lớn, mà ta còn không
biết ơn nghĩa thì thử hỏi làm sao ta có thể tốt với mọi người cho được.

 Ngoài việc
hiếu thảo đối với mẹ cha, ta còn phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu gia
đình
người thân như là thương yêu chính mình. Muốn được như vậy ta phải biết
chọn nghề nghiệp chánh đáng để sinh sống mà ít làm tổn hại cho ai, ta sống được
trọn vẹn như thế nên lúc nào cũng bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 Phương
pháp
thứ năm là:

 Sống vui vẻ bố thí
 Giúp gia đình người
thân
 Bình đẳng tùy theo
duyên
 Là phước đức lớn
nhất.

 Đạo Phật
đi vào đời, vì lợi ích chúng sinh, để chuyển hóa hiểm nghèo, Phật dạy pháp bố
thí
. Đây là điều căn bản trong cuộc sống, bố thícon đường mở rộng cửa từ bi
để mọi người biết sống thương yêu, bằng trái tim hiểu biết và đùm bọc giúp đỡ
lẫn nhau. Một người làm ăn lương thiện có nhân cách đạo đức, biết gầy dựng cơ
nghiệp của mình từ hai bàn tay và khối óc là phước đức lớn nhất. Càng phước đức
hơn khi cuộc sống của ta được đầy đủ về mọi mặt, ta không phải lo toan cơm áo
gạo tiền, ta không phải bận bịu về kế sinh nhai, nên ta dễ dàng dấn thân đi vào
đời để phục vụ lợi ích cho nhân loại.

 Nhờ vậy
ta có cơ hội sống tốt hơn để phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ người thân và nâng đỡ
sẻ chia với mọi người xung quanh, nhất là những người đang gặp bất hạnh, thiếu
thốn
khó khăn. Sống trung thực, thật thà ngay thẳng, biết xét nét từng cử chỉ
hành động của mình, mà ta lúc nào cũng an vui thanh thản, chẳng có điều gì phải
dằn vặt, làm ta bận lòng. Ta sống được bình an mà hay giúp người cứu vật là đã
thành tựu phước đức.

 Nên khi
ta có đời sống ổn định rồi, lại có nghề nghiệp chân chính chánh đáng. Ta phải
chia tiền bạc ra làm năm phần, hai phần duy trì công ăn việc góp vốn kinh
doanh, một phần lo thủ hậu bệnh hoạn mai sau, một phần giúp gia đình người thân
khi gặp hoàn cảnh khó khăn, một phần cúng dường người tu hành chân chính hoặc
hay giúp đỡ ai đó trong cơn hoạn nạn khốn khó.

 Bố thí hay
nâng đỡ tha nhânviệc làm cao thượng, mà mỗi người con Phật cần phải
trách nhiệm và bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì tình người, tình nhân loại trong
cuộc sống. Người con Phật trước tiên phải giúp đỡ cho gia đình người thân
trước, kế đến mới giúp người ngoài xã hộicúng dường Tam bảo, nhưng người có
tiền bạc thì dễ dàng làm được điều đó, còn kẻ nghèo khó thiếu thốn khó khăn thì
làm sao đây?

 Vấn đề
được đặt ra ở đây chính là tấm lòng, nếu ta có tấm lòng thì có tất cả, tùy hỷ
tán thán với việc làm tốt đẹp của người khác cũng là một nghệ thuật sống làm
cho ta chuyển hóa được thói quen ganh ghét tật đố, ta vui với việc làm tốt của
người khác, nhờ đó ta sống trong bình anhạnh phúc.

 Có nhiều
gia tộc sống rất hay, khi có người thành công trong việc làm ăn sinh sống bắt
đầu tìm cách để tạo điều kiện mà giúp đỡ cho người thân cũng được thành công
như mình.

 Kinh Phật
có một câu chuyện rất thực tế, có người hỏi hai người đồng nhau về mọi phương
diện
tài nănggiới hạnh, nhưng một người biết bố thí giúp đỡ, một người thì
không, sau khi chết đi, nếu hai người ấy sinh lại làm người thì có sự khác biệt
như thế nào?

 Phật nói
người có bố thí giúp đỡ sẽ vượt qua người kia trên năm phương diện, sống thọ
khỏe mạnh hơn, nhan sắc xinh đẹp dễ nhìn, cuộc sống an vui hạnh phúc, có địa vị
danh phận rõ ràng và có cuộc sống ngày càng thăng hoa hơn. Do vậy, bố thí cúng
dường
giúp ta vui vẻ sống lạc quan và dễ dàng buông xả các thói quen xấu có
tính cách hại người hại vật.

 Nhờ có bố
thí
buông xả ta được phước báu đầy đủ dư dã về mọi phương diện vật chất lẫn
tinh thần, cuộc sống luôn no cơm ấm áo, nhờ vậy ta khỏi phải lo toan bận bịu mà
sống có tình thương yêu chân thật, tình người trong cuộc sống, do đó ta biết
khoan dungđộ lượng, cảm thôngtha thứ, biết chia vui sớt khổ trên tinh
thần
vô ngã vị tha.

 Hai người
cư sĩ cùng giữ năm giới đầy đủ, siêng tu trí tuệ biết buông xả các tâm tư hại
người hại vật, nhưng một người có bố thí, biết giúp đỡ, bằng cả tấm lòng thành
kính của mình thì dĩ nhiên sẽ tăng thêm nhân quả thiện lành tốt đẹp trong hiện
tại
mai sau. Do đó quả báo sẽ thù thắng hơn trong năm điều kiện sống thọ, sắc
đẹp, an lạc, địa vị và cuộc sống mỗi ngày thăng hoa hơn. Giúp người hay nâng đỡ
một ai đó là nghĩa cử cao đẹp của người con Phật, cho đi mà không cần đền đáp
lại
vì đó là trách nhiệm chung và bổn phận của mọi người trong xã hội.

 Cho những
gì mình cần, mình thích, mình trân quý, mới là cách cho khó làm nhất trong cuộc
đời
. Để đạt được đỉnh cao của tấm lòng vô ngã vị tha, ta phải thấu rõ bản chất
của cuộc đờihư dối tạm bợ, vô thường và không có thực thể cố định là ta, là
của ta. Cho mà không thấy mình cho, vật cho và đối tượng để cho, có nghĩa là
khi gặp người tu hành chân chánh thì ta cúng dường, khi gặp người khó khăn thì
ta giúp đỡ mà không tính toán so đo, tùy duyên tùy hoàn cảnh mà ta có thể đóng
góp lợi ích thiết thực vào trong cuộc sống hằng ngày.

 Bố thí hay
giúp đỡ sẻ chia là con đường mau dẫn đến giàu có, an lạc hạnh phúc ngay trong
giờ phút hiện tại. Là pháp tu căn bản của người con Phật, do vậy ai hiện đời
sống
khá giả, nhiều tài sản là người đã biết gieo trồng phước đức từ nhân biết
bố thí san sẻ giúp đỡ người khác. Và ai hiện tại nghèo hèn khốn khó ít tài sản,
dù có làm việc vất vả nhọc nhằn quanh năm, nhưng vẫn thiếu trước hụt sau thì ta
biết mình ít gieo trồng phước, nên ta cần cố gắng nhiều hơn nữa trong việc bố
thí
cúng dường.

 Tuy nhiên,
vẫn có nhiều trường hợp khác biệt trong thực tế làm cho người ta nghi ngờ về lý
nhân quả, có người sống hay lường gạt trộm cướp lấy của người, vậy mà họ vẫn
sống phây phây giàu có dư dã, có nhiều thế lựctài sản lớn. Về mặt nhân quả
rất đa dạng và phức tạp, bởi vì nó phải trải qua ba thời hiện tại, quá khứ, vị
lai
hay còn gọi là hiện báo, sinh báohậu báo.

 Hiện báo
là khi ta gieo nhân thì có kết quả liền trong hiện tại, như ta đang đói bụng ăn
cơm vào được no, chính vì vậy mà ta gọi là gieo nhân thì gặt quả.

 Sinh báo
là khi ta gieo nhân thì phải chờ đến một thời gian nào đó mới có kết quả.

 Và hậu
báo
thì phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp mới cho ra kết quả. Khi đã gieo nhân
dù trăm kiếp nghìn đời vẫn không mất khi hội đủ nhân duyên thì sẽ cho ra kết
quả, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi. Như chúng ta đồng thời gieo trồng hạt giống
của ba loại cây lúa, cây chuối và cây xoài cùng một thời gian, nhưng kết quả ta
thu hoạch được của ba thứ cây này thời gian chênh lệch khác nhau.

 Hạt giống
của cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng, ta sẽ thu hoạch
được kết quả.

 Hạt giống
của cây chuối khi trồng xuống, phải từ sáu tháng cho đến một năm ta mới thu
hoạch được kết quả.

 Riêng hạt
giống
của cây xoài nhanh lắm phải từ hai năm trở lên, mới thu hoạch được kết
quả. Qua hình ảnh thí dụ này chúng ta sẽ thấy đường đi của nhân quả còn chịu
ảnh hưởng của nhiều duyên khác, có khi ta gây nhân mà không gặt được kết quả,
bởi do duyên không được đầy đủ.

 Về mặt
nhân quả kẻ làm ác mà vẫn hưởng điều tốt lành trong hiện tại như giàu sang
có chức quyền, đây chính là dư báo làm thiện của họ ngày xưa còn quá nhiều cho
nên chúng ta thấy nhân quả dường như chẳng công bằng tí nào. Chúng ta có thể
qua mặt được luật pháp và dối gạt nhiều người khác, nhưng ta không thể nào qua
mặt được luật nhân quả nghiệp báo, đến khi phước hết thì chịu họa khổ đau
cùng tận
.

 Còn người
hiện tại chuyên bố thí cúng dường hay giúp đỡ mọi người nhưng vẫn thường xuyên
gặp trắc trở hoạn nạn, thì sao? Có một bà già chuyên làm việc từ thiện đã gần
ba mươi năm, ai cũng biết bà như là một vị Bồ tát Quan Âm luôn có mặt khắp mọi
nơi
. Vậy mà bà lúc nào cũng gặp điều bất hạnh, chuyến từ thiện hôm ấy mọi người
trên xe đều chết hết, riêng bà chỉ bị gãy xương tay mà thôi, sự việc xảy ra như
thế làm bà mất niềm tin về nhân quả. Bà gần như muốn thoái Bồ đề tâm, một hôm
vô tình gặp một vị thầy bà liền kể hết nguyên nhân và kết quả việc làm của bà
từ bấy lâu nay.

 Vị thầy
lên một tiếng
tán thán việc làm của bà và không quên kèm theo một lời an ủi
thắm đậm tình người. Bà không thấy đó sao bao nhiêu người đều chết hết trong
chuyến xe oan nghiệt đó, còn bà chỉ bị gãy tay mà thôi và nay đã lành lặn. Đó
là phước của bà đã làm từ thiện trong nhiều năm qua, nhờ vậy bà thoát chết
trong đường tơ kẻ tóc, mà vẫn sống để tiếp tục làm công việc chia vui sớt khổ,
giúp đỡ mọi người nhiều hơn nữa.

 Khi được
vị thầy trình bày cặn kẽ về sự phức tạp và đa dạng của nhân quả, phải trải qua
ba thời hiện tại, quá khứ, vị lai. Bà hoan hỷ vui vẻ chưa từng có từ trước đến
nay
, nên phát tín tâm không còn nghi ngờ về lý nhân quả nữa, từ đó bà vững lòng
tin hơn nên phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn sống vì mọi người. Giờ thì bà
tuy đã lớn tuổi nhưng hầu như chuyến từ thiện nào bà cũng đều có mặt, bà luôn
vui tươi chia sẻ để làm giảm bớt nỗi đau bất hạnh của nhiều người.

 Bố thí
giúp đỡ với tâm chân thành vui vẻ đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ sẽ giúp cho
người qua cơn hoạn nạn, nên giá trị đóng góp rất thiết thực như người khát cần
nước, người rét cần lửa, người đói cần ăn. Ta bố thí cúng dường với tâm cung
kính
tôn trọng thì cả hai người cho và nhận, đều được an lạc hạnh phúc thật sự
ngay tại đây và bây giờ.

 Phương
pháp
thứ sáu là: 

 Tránh không làm điều
ác
 Không say sưa nghiện
ngập
 Siêng năng làm việc
lành
 Là phước đức lớn
nhất.

 Vậy thế
nào là việc ác? Cái gì có tính cách hại người hại vật đó là việc ác, như giết
hại, trộm cướp lường gạt, quan hệ bất chính với vợ chồng người khác, nói dối
gạt người, nói lời dụ dỗ hại người, nói lời cộc cằn thô lỗ, nói lời gây mất
đoàn kết làm hai bên hiểu lầm nhau và uống rượu say sưa nghiện nghập hoặc dùng
các chất kích thích như xì ke ma túy. Nói chung cái gì làm tổn hại cho nhau
trong hiện tạimai sau thì đó là việc ác.

 Đứng trước
dòng thác lũ của cuộc đời với muôn vàn sự sai khác, tốt xấu, nên hư, thành bại
đều do mình tạo lấy, mình làm lành làm tốt hưởng nhiều phước báo cõi trời
người, mình làm xấu làm ác chịu quả khổ đau trong ba đường dữ, địa ngục quỷ đói
súc sinh. Ai khôn ngoan sáng suốt biết học hỏithường xuyên quán chiếu tu
tập
thì sẽ quyết tâm tránh xa không làm các việc xấu ác.

 Trong cuộc
sống giao tiếp lễ nghĩa là đều không thể thiếu trong quan hệ tình người với
nhau
, cho nên miếng trầu men rượu là đầu câu chuyện để nối kết giao dịch trong
làm ăn sinh sống với nhau. Để giữ mình không say sưa nghiện ngập mà sống giữa
dòng đời nghiệt ngã không phải là chuyện dễ làm. Rượu chè, cờ bạc, đàn điếm,
hút xách là những thứ có sức quyến rũ hấp dẫn chúng ta lạ thường. Chỉ có người
thấm nhuần đạo lý, tin sâu nhân quả mới có thể vượt qua những thứ này mà biết
cách làm chủ bản thân.

 Phước đức
hình thành và tăng trưởng nhanh nhất khi chúng ta biết siêng năng làm các việc
thiện
lành tốt đẹp. Khi ta phát nguyện làm các việc có ích cho nhân loại, thì
ta sẽ không bao giờ làm các việc xấu ác. Làm việc thiện lành tốt đẹp luôn giúp
cho ta an vui trong chánh pháp mà sẵn sàng dấn thân phục vụ vì lợi ích tha
nhân
, không biết mệt mỏi nhàm chán. Khi ta tạo phước đức cho bản thân bằng cách
làm các việc bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ cho người bất hạnh, thì ta
tuyệt nhiên không bị sự chi phối của say sưa và nghiện ngập bê tha.

 Trong quan
hệ giao dịch làm ăn thói quen của người đời thường lấy ăn uống làm phương tiện
đối tác, nhất là rượu bia. Việc làm ăn càng thành đạt thì việc say sưa trong
rượu chè là đều khó có thể tránh khỏi, nhưng đã là Phật tử chân chính ta quyết
tâm
khắc phục thói quen say sưa nghiện ngập, để được sống tốt hơn mà làm tròn
trách nhiệm bổn phận cho gia đình và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.
Một con người thường xuyên say sưa nghiện ngập thì không bao giờ có tín tâm để
làm các việc thiện lành tốt đẹp.

 Và khi người ta giàu lên dễ sinh tật say sưa
đam mê các dục vọng thấp hèn, thường thì ta hay đổ thừa quy kết cho người nghèo
nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội. Thế nhưng khi con người phát triển văn
minh
tiện nghi vật chất càng cao, có khi lại gia tăng thêm tệ nạn xã hội, như
tình trạng của đất nước ta hiện nay. Trẻ em phạm pháp ngày càng nhiều, có những
vụ án hết sức nghiêm trọngdã man quá mức. Nạn suy đồi nhân cách con người
mất phẩm chất đạo đức, trình độ hiểu biếtnhận thức của chúng ta, không theo
kịp
đà tiến bộ xã hội, nên ta đã tự đánh mất mình trong si mê lầm lạc, mà làm
khổ đau cho nhân loại.

 Khi có
tiền trong tay, nhất là con cái của nhà giàu có, vì đua đòi ăn chơi trác táng
theo bè bạn, chứng tỏ đẳng cấp con nhà quý tộc hưởng thụ trụy lạc vui chơi
trong các vũ trường, quán nhậu, quán ba dẫn đến sa đọa bắt đầu kể từ đây. Tiền
của
cha mẹ chúng làm ra dễ dàng vì những phi vụ bất chánh nên sinh ra đủ thứ
tật xấu, ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, hút chích, gái gú.v.v… Như vậy giàu có mà không
nhân cách đạo đức thì thật là nguy hiểm vô cùng, nên hậu quả là nhiều gia đình
tan vỡ, đổ nát mất hạnh phúc, chỉ vì lòng si mê tham muốn hưởng thụ quá đáng.

 Ý thức
được sự sống trên thế gian này là phải nương nhờ lẫn nhau ta không làm ruộng
nhưng vẫn có cơm ăn, ta không dệt vải nhưng vẫn có áo mặc, cho đến các nhu cầu
cần thiết trong đời sống của ta hằng ngày cũng phải như thế. Nhiều người không
quan tâm chú ý đến khía cạnh này, nên đôi khi ta quá chủ quan không cảnh giác
để rồi đánh mất mình khi lỡ sa đà vào say sưa và nghiện ngập. Nói cách khác,
say sưa và nghiện ngập là hai yếu tố quan trọng khiến ta tổn giảm phước đức
nhanh chóng vì tinh thần si mê ám độn. Quả báo hiện đời tinh thần tán loạn
mờ làm khổ gia đình người thân và xã hội, dính vào vòng tù tội. Do đó, ta phải
thường xuyên gần gũi bạn lành lánh xa kẻ xấu ác, phát nguyện gieo trồng phước
đức
làm việc tốt vì lợi ích nhân loại, nhờ vậy ta lúc nào cũng bình tĩnh, sáng
suốt
làm chủ bản thânvượt qua cạm bẫy cuộc đời.

 Ai có nhân duyên lớn mới có cơ hội đọc tụnghành
trì
theo Kinh Nhân Quả Phước Đức, nhờ vậy ta chắc chắn sẽ gặt hái được phước
báo
thiện lành tốt đẹp trong hiện tạimai sau, nên ta không mắc phải những
sai lầm đáng tiếc mà sống bình an hạnh phúc.
 

 Phương pháp
thứ bảy là:

 Biết khiêm cung lễ độ
 Để học hỏi điều hay
 Nhớ ơn và biết đủ
 Là phước đức lớn
nhất.

 Người xưa
nói “ tiên học lễ, hậu học văn.” Biết khiêm tốn thấp mình thưa hỏi, biết kính
trên nhường dưới tôn sư trọng đạo để học hỏi điều hay lẽ phải. Tâm khiêm tốn lễ
độ
giống như biển cả mênh mông thấp mình chờ đợi, khiến trăm sông cao vót đem
nước về biển cả bao la. Do đó khiêm tốn để học hỏi là một nhân cách cao thượng
đôi với vị thầy của ta, nhờ thấp mình thưa hỏi đạo lý nên ta biết hóa giải
phiền
não tham sân si thành an vui hạnh phúc.

 Ngược lại
với tâm khiêm tốn là cống cao ngã mạn, người đời thường hay chấp trướcđịa vị
và bằng cấp, nếu muốn học đạo mà ta nghĩ rằng vị thầy đó còn dốt hơn mình,
chính vì thế ta coi thường khinh dễ nên bỏ lỡ cơ hội học đạo Thánh hiền. Ai
sinh ra chỗ ti tiện thấp kém đều từ tâm ngã mạn mà ra. Khi ta khiêm tốn thì tâm
cống cao ngã mạn biến mất, không có chỗ để cho nó dung thân. Biết thưa hỏi và
lắng nghe lời chỉ dạy của thầy, để ta biết cách tu tập, từng bước vượt qua cạm
bẫy
cuộc đời mà được an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 Tăng Pháp
Đạt chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ mà đầu không sát đất. Bị tổ quở,
trong tâm ông ắt chứa vật gì nên mới có tâm không khiêm tốn như thế. Pháp đạt
thưa: con tụng kinh Pháp Hoa hơn ba ngàn bộ. Tổ mới bảo dù ông tụng đến muôn
vạn bộ kinh, hiểu ý kinh và thông đạt hết các pháp mà chẳng cho là hơn người ắt
cùng ta sánh vai. Nay ông chấp trước tụng kinh nhiều mà không biết lỗi, ông hãy
lắng lặng lòng mà nghe ta nói kệ:

 Lễ
để cốt chặt cờ ngã mạn
 Tại sao đầu ông không sát đất?
 Có
ngã thì tội liền sanh
 Quên công thì phước bao la không cùng.

 Lễ lạy
mục đích để tỏ lòng tôn kính đối với vị thầy của mình và ta khiêm tốn thấp mình
thưa hỏi, để biết được điều hay lẽ phải trong cuộc sống mà dẹp bỏ tâm cống cao
ngã mạn của mình. Pháp Đạt vì còn thấy mình hơn Tổ nên lạy đầu không sát đất,
bị Tổ quở nếu thấy mình còn hơn người, vậy đến đây học đạo chi cho mất công
ích
. Như chúng ta đã biết người ngồi nhận lễ, là tạo nhân duyên tốt cho người
học đạo, nhờ vậy dẹp bớt được tâm cống cao ngã mạn.

 Người tu
mà không biết thấp mình thưa hỏi, thì làm sao học được đạo giác ngộ giải thoát?
Tăng Pháp Đạt liền lễ lạy cầu xin sám hối mong Tổ tha thứ cho. Pháp Đạt nhờ thế
nhận ra yếu chỉ tu hành, từ đó Ngài phát tâm tụng kinh nhiều hơn nữa.

 Ta học đạo
của bậc hiền Thánh trước tiên cần có tâm khiêm tốn, tha thiết vì cầu giải thoát
sinh tử, muốn được như vậy ta cần phải muốn ít biết đủ, không tham cầu quá mức,
sống đơn giản không tích chứa tài vật riêng tư. Điều quan trọng hơn hết là ta
phải biết nhớ ơn để đền ơn thầy tổ bằng cách siêng năng tu học và làm lợi ích
chúng sinh
, không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, nhờ vậy ta người cả hai
đều lợi lạc.

 Nhớ ơn và
đền ơnđạo lý uống nước nhớ nguồn, người học đạo chân chính lúc nào cũng
phải khắc cốt ghi tâm nương theo lời dạy, của bậc thiện hữu tri thứccố gắng
hành trì để đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ giải thoát. Sống đơn giản, biết
tiết chế trong việc ăn uống điều hòa trong mọi sinh hoạt và làm chủ ý nghĩ lời
nói
cho đến hành động bằng sự định tĩnh sáng suốt. Nhờ vậy, hành giả dễ dàng
chuyển hóa những tâm tư mê muội, tham lam ích kỷ, ganh ghét hận thù thành trong
sáng
hiện thực mà tan hòa vào trong hư không

 

 Phương
pháp
thứ tám là:

 Biết kiên trì phục
thiện
 Thân cận bậc hiền Thánh
 Siêng năng cùng tu
học
 Là phước đức lớn
nhất.

 Đi chùa làm công quả, nghe lời
Phật dạy, sám hối tụng kinh hoặc làm từ thiện để giúp đỡ mọi ngườiquán
chiếu
tham thiền v.v… chính là những việc làm cao thượng, có ích cho mình và
người mang lại phước đức cho hiện tạimai sau. Có nhiều vấn đề mà tiền bạc
không thể mua được, danh vọng không đánh đổi được và uy quyền không lung lạc
được và chỉ có học đạo, tham thiền mới có thể chuyển hóa được phiền muộn khổ
đau, thành an vui hạnh phúc thật sự cho con người. Ngày xưa thái tử Sĩ Đạt Ta
phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ và sau này là
vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng để tìm ra chân lý, nhờ siêng năng tinh cần
tu hành nên các Ngài dễ dàng buông xả các chấp mắc ở đời để rồi cuối cùng thành
tựu
đạo pháp. Khi tâm đã an thì thế giới đều bình an. Và chỉ có chuyên tâm học
đạo
mới có thể thành tựu phước đức to lớn này.

 Trong đời có hai hạng người,
người thứ nhất chưa từng vấp phải lỗi lầm luôn sống tốt và hoàn thiện chính
mình về mọi mặt. Hạng người thứ hai như là đa số chúng tasi mê chấp ngã
nhiều đời, nên ta sống dễ làm tổn hại cho người và vật.

 Đối với bậc thiện hữu tri
thức
, nếu có duyên được gần gũi để học đạo giác ngộ giải thoát thì ta phải
siêng năng kiên trì bền bỉ, dứt khoác buông xả thói quen xấu ác nhiều đời.
Ngoài việc kiên trì học đạo ta còn phải ra công làm việc đóng góp phục vụ đại
chúng
, không biết mệt mỏi, nhờ vậy thói quen xấu dần hồi được tiêu trừphước
đức
tự thân càng thêm tăng trưởng.

 Ở Thường chiếu mỗi thiền sinh
phải lao động cùng tu học như cái đỉnh ba chân. Học để hiểu lời Phật dạy, lao
động để cảm thông được nỗi nhọc nhằn của đàn na tín thíchúng ta cố gắng tu
cho tốt. Thiền sinh nào áp dụng thuần thục đầy đủ ba điều kiện trên thì trước
sau gì cũng sớm mau thành tựu đạo pháp. Thường xuyên gần gũi thân cận bậc hiền
Thánh
, siêng năng tu họckiên trì bền bỉ trong việc gạn lọc thân tâm. Nhờ
vậy tâm tham lam ích kỷ được tiêu trừ, tâm ganh ghét tật đố nóng giận được
chuyển hóa, tâm si mê chấp trước thành vô lượng trí tuệ từ bi.

 Phương
pháp
thứ chín là:

 Sống tinh cần tỉnh
thức
 Biết quay lại chính
mình
 Để sống đời giải thoát
 Là phước đức lớn
nhất.

 Trong quá trình hướng nội, thanh
lọc thân tâm thì chứng đạt Niết bànphước đức lớn nhất. Sự siêng năng chuyên
cần
tu tập, duy trì sự tỉnh thức thường xuyên là những nhân tố quan trọng để
thành tựu đạo quả. Niết bànsự giải thoát khỏi tất cả những ràng buộc phiền
não
khổ đau, là ánh sáng phá tan bóng tối si mê, để chấm dứt khổ đau luân hồi
sanh tử
. Việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống rồi, hành giả thong dong tự tại làm đẹp cuộc
đời
, bằng cách dấn thân phục vụ tha nhân không biết mệt mỏi nhàm chán với tinh
thần
vô ngã vị tha.

 Bản hoài của chư Phật là muốn
cho chúng ta được hoàn toàn giác ngộgiải thoát, muốn vậy ta phải siêng năng
tinh cần gạn lọc thân tâm, ta kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ lời nói cho đến hành
động không để cho chúng phát sinh trái phép.

 Người mới tu thì chăn giữ con
khỉ ý thức của mình bằng hai loại thiền chỉ và quán, cái gì nương vào một chỗ
thì ta gọi là chỉ, như niệm Phật hay quán hơi thở chẳng hạn. Quán là dùng nhận
thức
của mình xem xét soi rọi, để thấy rõ thân này và vạn vật luôn vô thường
biến đổi. Thân thì bốn chất đất nước gió lửa hòa hợp lại mà thành nên phải sinh
già bệnh chết, vũ trụ thiên nhiên thì thành trụ hoại không. Cho nên không có
cái gì là thực thể cố định cả.

 Trong đạo Phật có hai loại
thiền chỉthiền quánphương pháp đối trị ban đầu. Chỉ nhiều thì được định
nếu khôngtrí tuệ soi sáng hành giả
dễ rơi vào si định, quán nhiều sinh trí tuệ nhưng ta lại lăng xăng không định
tĩnh. Mỗi hành giả ứng dụng hai pháp chỉ quán này thuần thục rồi, thì ta quay lại pháp trung
đạo, dùng tính biết sáng suốt của mình nương nơi mắt thấy biết rõ ràng mà không
phân biệt đẹp xấu, thấy chỉ là thấy, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Đó
phước đức lớn nhất.

 Phương
pháp
thứ mười là:

 Làm việc cùng mọi
người
 Tâm không hề thay đổi
 Não phiền dứt, an
nhiên
.
 Là phước đức lớn
nhất.

 Với tâm giải thoát tự tại, hành
giả
an nhiên bất động trước vô vàn biến động của cuộc đời như được mất, khen
chê, tốt xấu, khổ vui, mà tự tại vào ra trong sanh tử để cứu độ chúng sanh. Làm
đẹp cuộc đời trang nghiêm đạo pháp như là sở hành của các vị Bồ tát, đây không
chỉ là phước đức vẹn toàn cho một người mà tất cả chúng sinh cần phải biếp áp
dụng
hành trì. Nhờ vậy, con người được nâng cao trình độ hiểu biết, xã hội
giảm bớt tệ nạn xấu ác, cá nhân được tăng trưởng phước đức, gia đình sẽ sống
trên thuận dưới hòa và nhân loại được sống trong bình yên hạnh phúc.

 Thật rõ ràng, xuyên suốt nội
dung bản kinh Thế Tôn chỉ dạy cách thức làm phước và chuyển hóa nội tâm, mà
không hề có chuyện xin xỏ phước đức. Cho nên trong đạo Phật có chủ trương cầu
nguyện
, mà tuyệt đối không có cầu xin ban phước giáng họa. Ta mỗi ngày có quyền
cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được sống bình an hạnh phúc, cùng nhau chia
vui sớt khổ, thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim yêu thương
hiểu biết.

 Đức Phật là vị thầy dẫn đường,
chỉ dạy cho ta biết được điều hay lẽ phải, tốt xấu, nên hư, thành bại trong
cuộc đời, còn làm được hay không là do ta, ta phải tự mình thắp đuốc lên mà đi,
thắp lên với chánh pháp. Khi mê thì Phật độ, khi biết được nguyên nhân dẫn đến
luân hồi sinh tử thì ta phải tự tu tự độ. Phật không trực tiếp ban phước cho ta
được bình yên hạnh phúc, Ngài chỉ dạy phương pháp để chuyển hóa rồi chúng ta
phải tự thực tập, hành trì để tạo ra phước đức vẹn toàn cho bản thân.

 Mong ước
được sống an vui và hạnh phúc, chính là một sự phát nguyện vun bồi phước đức tự
thân, được thể hiện qua sự chuyển hóa từ ba nghiệp thân miệng ý theo hướng
thiện lành tốt đẹp. Do đó, bình anhạnh phúc có thể tạo dựng ngay tại đây và
bây giờ mà chẳng phải tìm cầu đâu xa.

 Phước huệ
song tu là con đường dẫn đến thành Phật viên mãn, tu phước không tu huệ, kiếp
sau
tuy giàu có, nhưng lại bị ngu si, tu huệ không tu phước, kiếp sau tuy thông
minh
, nhưng lại bị nghèo khó, phước huệ đều song tu, thành Phật trong tương lai.

 Cho nên
trong đạo Phật có ba mục đích để chúng ta hướng đến, tùy theo tâm tư nguyện
vọng của mọi người, mà ta có quyền chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh sống
trong hiện tại.

 Mục đích
thứ nhất là sống trong cõi trời người có phước báo, chấp nhận có khổ có vui mà
cùng sống chung với mọi người.

 Mục đích
thứ hai là thoát khỏi luân hồi sinh tử để được Niết bàn an vui vĩnh viễn.

 Mục đích
thứ ba là giáo hóa chúng sinh để được thành tựu phước trí viên mãn hay còn gọi
phước huệ song tu, đó là con đường hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành
Phật
viên mãn mới thôi.

 Người
bước đầu cần tu phước trước để ổn định đời sống gia đình, khỏi phải bận bịu
lo toan cơm áo gạo tiền, nhờ vậy ta có thời gian quán chiếu tham thiền. Gia
đình
là nền tảng của xã hội, không có gia đình thì xã hội cũng phải phế bỏ, cho
nên tùy theo hoàn cảnh của mọi người mà ta biết áp dụng phước huệ song tu sau
cho được vuông tròn tốt đẹp.

 Ngày xưa
có vị thầy giới luật trang nghiêm, tu hành tinh tấn không lơ là giải đãi một
ngày nào, do đó đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì chỉ siêng tu trí tuệ cho
riêng mình mà không giúp đỡ cho ai hết, trong khi đó thầy đã thọ nhận của đàn
na
tín thí quá nhiều. Do nhân quả như thế nên hiện đời thầy sống trong thiếu
thốn
, mỗi ngày chỉ khất thực được chút ít sống qua ngày. Bởi nghiệp lực quá khứ
không gieo trồng nhân chia sẻ nên quả báo hiện đời không bao giờ có một ngày no
đủ. Cho nên nhân quả rất công bằngbình đẳng, gieo nhân nào thì gặt quả đó
là vậy.

 Ngày nay
các Phật tử đến chùa, ít ai có lòng tin nhân quả sâu sắc, mà chỉ một bề cầu xin
thì nhiều. Cho đến bây giờ tập tục cúng sao giải hạn ở các chùa vẫn cứ thịnh
hành
, vì quý thầy quá từ bi sợ Phật tử bỏ chùa không đến ủng hộ. Đại đa số Phật
tử
đến chùa cầu xin Phật Bồ tát gia hộ nhiều hơn, mà không biết gieo nhân nào
để được gặt quả tốt.

 Cũng đồng
với thầy đó, một người bạn vì ham làm phước với quan niệm mong được giàu có để
hưởng thụ mọi nhu cầu cần thiết, nên hiện tại bị đọa làm con voi trắng trong
cung vua. Voi ta được trang sức lộng lẫy bằng thất bảo, chỉ để chở nhà vua và
hoàng hậu mà thôi. Cuối cùng một người nhờ có trí tuệ mà được giác ngộ giải
thoát
, nhưng gì không giúp ai nên cả đời đều chịu khó khăn thiếu thốn. Còn
người kia vì ham làm phước mà không chịu siêng tu trí tuệ, nên bị đọa làm con
voi trắng trong cung vua. Chính vì thế, Phật dạy chúng ta phước huệ song tu, để
đi theo con đường Bồ tát đạo mà cùng nhau chia vui sớt khổ trên tinh thần
ngã
vị tha.

 Sau khi
Phật chỉ dạy mười phương pháp để hành trì phước đức viên mãn, và cuối cùng Phật
khẳng định:

 Ai sống được như vậy
 Ở đâu cũng hạnh phúc
 An nhiêntự tại
 Vì phước đức vẹn toàn.

 Muốn được
như thế thì mỗi hành giả phải phước huệ song tu. Làm phước để có cơ hội giúp đỡ
mọi người, tu huệ để biết cách chuyển hóa ba nghiệp tham sân si làm tổn hại
người và vật, thành vô lượng trí huệ từ bi với tinh thần vô ngã vị tha.

 Để cho dễ
hiểu
chúng tôi tạm thời phân ra làm hai vế phước đức và công đức. Làm phước là
việc làm đóng góp giúp đỡ bên ngoài về phương diện vật chất từ lời nói cho đến
hành động. Công đức là cái tốt do tu tâm, khi làm việc giúp đỡ người khác mà ta
bị bêu xấu hủy nhục nhưng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên, không hề có ý niệm phiền
muộn
phát khởi trong tâm, ta nghe những lời chỉ trích vu khống đó như gió
thoảng qua tai.

 Chúng ta
cần phải thực hiện đầy đủ cả hai mặt phước đức, ta cần phải có tâm làm lợi ích
cho người và khi làm, tâm ta không hề dính mắc vào việc gì. Đây là con đường
của các vị Bồ tát đang ứng dụnghành trì để được thành Phật trong tương lai.
Nhờ vậy, ta lần hồi gột rửa bớt tâm tham lam ích kỷ hẹp hòi, tâm ganh ghét tật
đố tị hiềm sân hận, tâm si mê bám víu vào cái ta không thực thể.

 Trên thực
tế
ta dường như thấy phước và đức tách biệt nhau hẳn hòi, nhưng sự thật người
tâm hồn cao thượng mới dám bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia và ngược lại,
khi làm việc phước mà ta không chấp trước dính mắc vào việc làm đó, vì ta đã
thanh lọc được tâm tư trong sạch. Cho nên làm mà không thấy mình làm, tu mà
không thấy mình tu, chỉ tùy duyên tùy thời mà làm phước tu tâm.

 Chính vì
sự liên hệ mật thiết của việc làm phước và tu tâm, giúp cho các vị Bồ tát ý
thức
được trách nhiệm và bổn phận của mình, làm phước để có cơ hội giúp đỡ
người, tu tâm để chuyển hóa tham sân si thành an vui hạnh phúc. Ta muốn thành
Phật
thì không có con đường nào khác hơn là làm phước và tu tâm, nhờ vậy khi bố
thí
cúng dường ta chuyển hóa được tâm ích kỷ tham lam, bỏn xẻn keo kiết, tâm
sân hận si mê được giải trừ, để tâm từ bi hỷ xả được lan tỏa khắp mọi nơi.

 Việc làm
phước và thanh lọc nội tâm rất cần thiết cho hàng Phật tử chúng ta, tùy theo
hoàn cảnh của mọi ngườichúng ta biết cách áp dụng sau cho phù hợp để phước
và đức của tự thân ngày càng được tăng trưởng.

 Ở đây, bài
kinh
Phước Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta rất cụ thểrõ ràng, trước tiên muốn
tu tâm dưỡng tính ta phải biết thân cận người hiền, lánh xa kẻ xấu ác, tôn kính
bậc đáng kính. Kế đến, biết chọn môi trường tốt để làm các việc thiện lành tốt
đẹp
, hay siêng năng học hỏi và giỏi nghề nghiệp chuyên môn, nhờ biết gìn giữ
đạo đức từ ý nghĩ lời nói cho đến hành động đều hướng thượng.

 Biết hiểu
thảo với cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, biết chọn lựa nghề nghiệp chân
chính
thích hợp, rồi đến sống vui vẻ bố thí giúp đỡ bình đẳng không phân biệt
mọi thành phần giai cấp trong xã hội. Muốn vậy thì ta phải siêng năng làm các
việc lành, tránh xa việc xấu ác, nhờ đó ta không say sưa nghiện ngập, cho nên
lúc nào ta cũng khiêm tốn thấp mình học hỏi điều hay lẽ phải. Nhờ thông hiểu
Phật pháp ta biết muốn ít biết đủ, hài lòng với hoàn cảnh hiện tại và luôn nhớ
ơn thầy tổ mà ráng cố gắng duy tì phước huệ song tu để thành tựu Phật đạo viên
mãn
.

 

(CÙNG TÁC GIẢ)