Bản Tánh Hiểu Biết Của Tâm

0
34

BẢN TÍNH SÁNG NGỜIHIỂU BIẾT CỦA TÂM
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Thứ 14
thuyết pháp tại Claremont College
Bạch Nga (Lozang Ngodrub) chuyển ngữ

dalailama2-smdalailama2-smChúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt,
nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân
hận
, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân. Do đó, chúng ta cần phải nhận
diện
những cảm xúc này và đương đầu với chúng ngay tức khắc. Nếu chúng ta dần
dần
làm quen với việc kiềm chế những tâm thái xấu, thì sau nhiều năm, một người
trước kia hay giận dữ cũng có thể trở nên bình tĩnh.

Có người cảm thấy rằng ta sẽ mất đi sự độc lập nếu ta
không để cho tâm mình đi rong theo ý muốn, mà lại cố gắng điều phục tâm. Sự
thật
không phải như vậy, nếu tâm ta đang tiến triển một cách đúng đắn, thì ta
đã có sự độc lập rồi, nếu không thì ta cần phải điều phục tâm mình lại.

Liệu chúng ta có thể loại bỏ những vọng tưởng phiền
não
hay không, hay chỉ có thể ức chế những cảm xúc ấy thôi? Đối với Phật giáo,
bản tính chân thật của tâm là ánh sáng trong (thanh quang), còn những ô trược
thì bất định, vô thường và có thể tách rời khỏi tâm. Nói một cách triệt để thì
bản tính của tâm là không có tự tính.

Nếu những cảm xúc phiền não, như sân hận (oán ghét),
thuộc về bản tính của tâm, thì ngay từ lúc tâm phát khởi, nó đã luôn chứa đầy
sự oán ghét, vì sự oán ghét đó chính là bản tính của tâm. Tuy nhiên, rõ ràng
điều này không đúng, vì chỉ trong những hoàn cảnh nào đó thì chúng ta mới giận
dữ
, chứ không phải lúc nào chúng ta cũng như vậy. Điều này cho thấy rằng tính
chất
của sự sân hậntính chất của tâm khác nhau, mặc dù nếu nói sâu xa hơn
thì cả hai đều thuộc về tâm thức và đều có tính chất sáng ngờihiểu biết.

Hoàn cảnh nào là nền tảng cho sự sân hận phát sinh?
Sân hận khởi phát vì chúng ta áp đặt lên các hiện tượng một đặc tính ít lôi
cuốn
hơn hay xấu xa hơn đặc tính thực sự trong các hiện tượng đó. Từ nền tảng
của sự áp đặt này, chúng ta giận dữ với điều gì cản trở lòng ham muốn của mình.
Do đó, nền tảng của tâm thù hận oán ghét là một nền tảng không đúng đắn. Ngược
lại, tâm từ bi thì lại có nền tảng đúng đắn. Về lâu dài, nếu có sự xung đột
giữa một tâm thái dựa trên nền tảng tốt và một tâm thái trái ngược thì tâm thái
dựa vào nền tảng đúng sẽ thắng.

Do đó, nếu chúng ta trau giồi những tâm thái tốt dựa
trên
nền tảng đúng đắn một cách đều đặn trong một thời gian dài, thì những tâm
thái có nền tảng không đúng sẽ dần dần giảm đi. Chẳng hạn như khi chúng ta rèn
luyện
thể lực để nhảy xa, thì căn bản luyện tập là thân thể vật chất thô thiển
của mình, do đó chúng ta chỉ có thể nhảy xa đến một mức độ nào đó mà thôi. Tuy
nhiên
, vì tâm là một thực thể chỉ bao gồm sự trong sángý thức, khi nó được
rèn luyện dần dần, chúng ta có thể phát triển những tâm thái hữu ích một cách
vô giới hạn.

Chính chúng ta biết rằng tâm có thể ghi nhớ rất nhiều
điều; nếu ta ghi nhớ một việc nào đó, rồi lại ghi nhớ thêm một việc khác nữa,
cuối cùng chúng ta có thể lưu trữ

rất nhiều trong trí nhớ của mình. Hiện tại, chúng ta
không thể ghi nhớ một cách phi thườngchúng ta chỉ sử dụng những tầng lớp
tâm thức rất thô sơ, nhưng nếu chúng ta sử dụng được những tầng lớp tâm thức vi
tế
hơn, thì chúng ta sẽ có thể lưu trữ thêm nhiều điều hơn nữa trong trí nhớ
của mình.

Phẩm
chất của tâm thức có thể phát triển vô tận. Khi ta càng áp dụnggia tăng
những tâm thái đối kháng với những cảm xúc phiền não, thì phiền não sẽ ngày
càng giảm đi và cuối cùng sẽ bị tận diệt. Người ta tin rằng vì tính chất của
tâm chỉ là ánh sáng và hiểu biết, tất cả chúng ta đều có đầy đủ những điều kiện
căn bản cần thiết để đạt được Phật quả.


tưởng
Phật giáo dựa trên tính chất thiết yếu của tâm là sự sáng ngờihiểu
biết
, từ đó ta có thể chứng minh rằng tâm dần dần sẽ hiểu biết được tất cả.
Điều này, trên khía cạnh triết lý, hỗ trợ cho quan điểm cho rằng những tâm thái
tốt có thể được gia tăng vô hạn định.

Về
phương diện hành trì hàng ngày, nếu ta nhận diện được bản chất của tâm và tập
trung vào đó thì sẽ rất hữu ích. Lý do khiến chúng ta khó nhận diện được bản
tính
của tâm là vì những ý niệm của chúng ta che phủ lên bản chất này. Do đó,
trước nhất, đừng nhớ lại những điều đã xảy ra trong quá khứ, đừng nghĩ tới
những gì sẽ xảy ra trong tương lai; hãy để cho tâm tự nhiên trôi chảy mà không
cần ý niệm. Để cho tâm nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên và hãy quan sát nó.
Lúc đầu, khi ta chưa quen với cách thực tập này, thì sẽ cảm thấy rất khó khăn,
nhưng với thời gian, tâm sẽ hiện ra như nước trong veo. Khi ấy, hãy trụ trong
trạng thái tâm không bị thêu dệt này và không để cho bất cứ ý niệm nào phát
sinh nữa.

Buổi
sáng sớm là lúc tốt hơn hết để hành thiền với phương pháp trên, vì đó là lúc ta
vừa thức dậy, tâm đang sáng suốt nhưng các giác quan chưa hoàn toàn hoạt động.
Nếu buổi tối hôm trước, ta không ăn quá độ hoặc ngủ quá nhiều thì sáng hôm sau
tâm sẽ nhẹ nhàng và bén nhạy hơn. Dần dà rồi tâm của ta sẽ ngày càng trở nên
vững vàng hơn; sự tỉnh thứctrí nhớ sẽ sáng suốt hơn.

Ta
hãy nghiệm thử xem hành trì như trên có làm cho tâm ta tỉnh táo hơn trong suốt
ngày hay không. Lợi ích tạm thời của hành thiền là tâm thức ta sẽ an lạc hơn.
Khi trí nhớ trở nên khả quan hơn, ta sẽ dần dần phát triển được khả năng biết
được quá khứ vị lai, do kết quả của sự tỉnh thức ngày càng gia tăng. Một lợi
ích
lâu dài là khi tâm ta đã trở nên minh mẫn và bén nhạy hơn, ta có thể sử
dụng
tâm mình trong bất cứ lãnh vực nào tùy ý.

Nếu
ta có thể thiền một chút mỗi ngày, thâu nhiếp lại tâm ly tán, hướng tâm về bên
trong, thì điều này sẽ giúp ích cho ta rất nhiều. Dòng ý niệm dựa trên những
suy nghĩ thị phi (về những điều tốt, những điều xấu, vân vânvân vân) sẽ
ngưng lại . Cách này sẽ giúp cho tâm ta được an trú trong vô niệm, khi dòng ý
thức
tạm thời ngưng nghỉ.

 

Ghi
chú : Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and
Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow
Lion
Publications, www.snowlionpub.com. Jeffrey Hopkins
dịch từ Tạng ngữ sang Anh ngữ và cùng hiệu đính với Elizabeth Napper. Nhà xuất
bản Motilal Banarsidass Publishers Private Limited ấn hành tại Delhi năm 1997
và Snow Lion Publications ấn hành tại New York năm 1996, ấn bản thứ 12.
Xin hồi hướng mọi công đức
đến sự toàn giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan
Âm
Thiền Phật Học Viện, Ani Lozang Chophel, Lozang Ngodrub, Như-Ý Liên-Hoa dịch
hiệu đính tại Brisbane, Queensland, tài liệu phân phát nhân dịp Geshe Tashi
Tsering thuyết giảng về đề tài trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra
Queensland, vào ngày 14 tháng 4 năm 2007.