Ai Là Bậc Hiền Trí Đích Thực?

0
37

Ai là bậc hiền trí đích thực?
Thích Hạnh Tuệ

Trong
thời đại được gọi là văn minh như hiện nay vẫn xuất hiện không ít những người
tự xưng là giáo chủ, thánh chủ, thượng sư hay đạo sư. Có người tự cho rằng được
thánh nhập, chỉ cần theo họ tu bảy ngày mở bảy luân xa là đắc đạo thành tiên
thánh
rồi dùng nhiều cách thức mê hoặc, dẫn dụ người đi theo vì nhiều mục đích
khác nhau. Điều này ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, trong đó có cả
những Phật tử hiền lành chất phác.

Là người con của Đức Phật, chúng ta không
thể làm ngơ, nên bài viết này với hy vọng góp phần chỉ rõ, ai mới là bậc thầy,
bậc thiện tri thức đúng nghĩa để mọi người có thể nương tựa học hỏi, và tu
hành
theo đúng Chánh pháp

 

Làm thế nào
để mọi người có thể nhận diện được một con người giác ngộ, tịch tĩnh có đầy đủ
trí tuệđức hạnh ở đời? “Trước hết, đó là một người đã buông bỏ hết tất cả
những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, vướng mắc gì vào
tương lai. Và cả chính trong hiện tại người
đó cũng không vướng vào hư danh và sự tôn kính của người đời. Người đó là một
bậc Mâu Ni, một người toàn thiện” (Kinh Cha con gặp nhau, Đại chánh tân
tu 198, Thích Nhất Hạnh dịch).

Một người bình thường như tất cả
những người khác, nhưng đã buông bỏ được tất cả những giận hờn, hận thù, lo
lắng
, phiền muộn, ân oán trong quá khứ; không dính mắc, chấp trước hay mơ mộng
hão huyền vào những mong cầu ở tương lai; cũng không vướng mắc vào những gì
trong giây phút hiện tại. Bởi người đó đã thấu rõ quá khứ đã qua rồi, tương lai
thì chưa đến, hiện tại đang luân chuyển đồng thời nhìn thấu danh lợi, địa vị
vốn không thật có, nên không vướng mắc vào hư danh, tâm của vị ấy không bị dao
động
bởi sự tôn kính hay bất kính của người đời. Người như vậy chính là bậc
trọn lành, tịch tĩnh, đức hạnh đầy đủ, hoàn toàn ung dungtự tại ở đời.

Theo lời Phật dạy, trong tám con
đường
chân chính đưa mọi người đến nơi an vui hạnh phúc thì chánh kiến, tức là
cái thấy biết chân chính đứng đầu, muốn có chánh kiến trước hết phải buông bỏ
tất cả các tà kiến kể cả tư kiến.

Vì không ưu sầu về quá khứ, không
vướng mắc vào tương lai, lại buông bỏ được mọi sự tham cầu, không còn chấp vào
cái ta và cái của ta, nên vị ấy đã nhìn thấu thực tính của các pháp và vượt qua
mọi nỗi sợ hãi, lòng tin chân chính được củng cố vững chãi, tâm không còn dao
động
trước ngoại cảnh. Như vậy, những nghi nan trong lòng của vị ấy tự nhiên
tiêu trừ, xa lìa lòng ganh tỵ, an trụ trong hiện tại nhiệm mầu, tâm luôn an vui
với cuộc sống hiện tại. Nhất là nếp sống của vị ấy vô cùng đơn giản, thanh thơi
tự tại.

Vị ấy có khả năng làm chủ chính
mình, làm chủ cuộc đời mình, không bị lòng tham dục bên trong hay những lạc thú
bên ngoài kéo đi. Đi đứng nằm ngồi, vị ấy luôn tỉnh giác, luôn tự tiết chế,
điều độ trong ăn uống ngủ nghỉ, không bị nô lệ cho đam mê, tập khí hay thói
quen
. Rất nhiều người thường tự hào về những thành tựu trong sự nghiệp tiền
tài, danh vọng, địa vị, nhưng suốt đời họ sống nô lệ cho lòng tham dục, si mê
của mình mà họ không biết. Thật đáng thương thay!

Tu tập để ngày càng làm chủ bản
thân
mình nhiều hơn là một việc rất quan trọng và cần thiết. Với trí tuệ tịch
tĩnh
, vị ấy đã nhìn rõ thật tướng các pháp nên đã hoàn toàn xa lìa được lòng
ganh ghét, đố kỵ; xa lìa sự nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, không
nói lời trau chuốt giả tạo; buông bỏ mọi hý luận không có lợi ích thật sự cho
sự giác ngộ giải thoát; tâm không còn hoài nghi, ngờ vực về con đường tu hành.

Vị ấy biết rõ, nguyên nhân của khổ
đau là tham vọng quá nhiều, nên xa lìa được dục vọng. Tâm ý của vị ấy không còn
bị trói buộc vào bất kỳ thứ gì, được tự do một cách trọn vẹn. Những sợi dây phiền não không còn nơi để phát huy tác dụng
được nữa. Không còn vướng mắc, chấp trước vào những cái thấy của riêng mình.
Miệng không còn nói những lời thêu dệt, hư vọng. Bước chân của vị ấy chậm rãi,
thảnh thơi, vững chãi, an lành. Tâm vị ấy không còn mọi ý tưởng tham dục, ham
muốn
. Vị ấy luôn tỉnh táo và nhẫn nại, có khả năng hóa giải mọi sự cãi cọ, tranh chấp, hơn thua bằng trí tuệtừ bi.

Vị ấy nhận rõ rằng, mọi dục tưởng
là do tri giác sai lầm đưa tới ham muốn. Nếu khôngdục tưởng thì sẽ không có
ham muốn. Do chúng ta tham muốn tìm cầu nhiều thứ, nào là tiền tài, danh vọng,
quyền hành, nữ sắc…, vì cứ nghĩ chúng sẽ đem lại cho mình an lạchạnh phúc,
cho nên chúng ta khổ đau nhiều. Còn vị ấy biết rõ, một khi bị vướng vào những
thứ đó rồi mình sẽ mất hết hạnh phúc, thảnh thơi, an lạc mà chỉ còn lại toàn là
đau khổ.

Lòng vị ấy đã trong sạchsáng
suốt
, nên không còn mưu toan hay thủ đoạn để thỏa mãn sự ham muốn bản thân
ngay cả việc thành tựu được một mức độ nào đó trong tu học – cho nên không buồn
phiền
, lo lắng hay oán giận khi không có được hay mất mát thứ gì. Nhất là vị ấy
đã đoạn trừ được sự luyến ái, không còn bị nô lệ cho ái dục. Đây là một điều
rất khó làm được, vì sở dĩ chúng ta có mặt trong cuộc đời này là do ái dục;
chúng ta trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu đủ mọi đau khổ triền miên cũng
là do ái dục. Ái dục chính là nguồn gốc của sinh tử luân hồi, là nguyên nhân
của khổ đau, nên xa lìa được ái dục tức là an vui giải thoát.

Vị ấy quán chiếu sâu và thấy rõ
tất cả mọi chúng sinh đều có thật tánh bình đẳng, tất cả các pháp thật sự bình
đẳng
, đạt đến cái thấy vô ngã, nên xa lìa được hai trạng thái tự cao và tự ti,
không còn mặc cảm hay tự mãn, không còn ý tranh luận hơn thua với người. Vị ấy
luôn kiểm soát tâm ý không để buông lung theo cảnh vật bên ngoài, nhìn thấu,
hiểu rành các pháp thiện và pháp ác, cũng không kẹt vào thiện ác, suy nghĩ
không còn dấu vết và sai lầm.

Người nào chưa đạt đến cái nhìn
ngã
, chưa thấu rõ thật tánh bình đẳng của các pháp, thì chưa thể xem là bậc đạo
được. Đây chính là cơ sở quan trọng nhất để nhìn nhận ai là đạo sư chân
thật
.

Vị ấy dùng trí tuệ quán chiếu,
thấu rõ tự tánh của các pháp, bản chất của mọi sự vật hiện tượng, nên không còn
bị trói buộc hay vướng mắc vào bất kỳ pháp nào, cũng không còn kẹt vào hai đầu
đối đãi có và không, do đó không có gì là không vượt thoát được.

Tâm vị ấy đã tịch tĩnh, lòng tham
ái
cũng không còn, những vô minh, những ham muốn, những cám dỗ, lạc thú trong
cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc không còn làm cho tâm vị ấy dao động. Vị ấy thực
sự là một người tự tại đối với các pháp, tâm đã hoàn toàn buông xả, không còn
bị cái gọi là sở đắc trói buộc.

Đó là người đã vượt qua biển sầu
khổ
đến nơi không còn bất kỳ âu lo, phiền muộn gì nữa.

Bậc đại trí tuệ chỉ rõ cho chúng
ta
thấy được, người mà còn muốn có con trai để nối dõi tông đường, kế thừa sản
nghiệp, lòng muốn tích trữ tiền bạc của cải cho nhiều, cái mình không thích thì
chán ghét, thứ mình thích thì bo bo gìn giữ, thì chắc chắn người ấy không phải
là người thanh tịnh, không phải là chân tu, cũng không phải là đạo sư đích
thực.

Một bậc đạo sư đích thực là tâm vị
ấy thực sự xa lìa được cả hai thái cực ham muốn và ghét bỏ, tức là không còn
ham muốn bất cứ cái gì, cũng không chán ghét bất kỳ cái gì.

Vị ấy là người thấy đạo, đã xác
định rõ con đường cần phải đi, tâm ý đã hoàn toàn an tịnh sáng suốt, vượt ra
ngoài tác động của những sự khen ngợi hay chê bai, tôn kính hay xúc phạm. Tức
là khi bị chê bai, xúc phạm, vị ấy không còn khởi ý nóng giận; khi được khen
ngợi, tôn kính, vị ấy không cảm thấy tự cao tự mãn, kể cả khi bị vu oan vị ấy
cũng không còn muốn bào chữa, minh oan cho mình.

Những ý niệm tham lam, keo kiệt,
ganh ghét hoàn toàn không còn hiện hữu trong tâm vị ấy, ý niệm tự cao tự mãn
hay mặc cảm tự ti cũng hoàn toàn được tịnh trừ không còn dấu vết. Tâm vị ấy đã
được kiên định, lời nói, việc làmsuy nghĩ không còn mảy may sai lầm.

Vị ấy đã thấu rõ tính Không, liễu
ngộ
thực tính của vạn pháp, hiểu hết bản chất của mọi sự vật, hiện tượng, không
còn mong cầu bất kỳ cái gì, cũng không thấy mình có bất kỳ sở đắc nào, vượt ra
ngoài những ham muốn phàm tục của thế gian.

Tâm vị ấy hoàn toàn tĩnh lặng,
sáng suốtan ổn, ý của vị ấy đã không còn buông lung. Vị ấy thật sự đã vượt
ra ngoài mọi sự ràng buộc, giải thoát ra khỏi mọi khổ đau trong sinh tử luân
hồi
, sạch hết mê lầmsợ hãi, là con người tịch tĩnh, sáng suốt, chứng ngộ
Niết-bàn.

Như vậy, con người trí tuệ tịch tĩnh của dòng họ Thích Ca đã đích thân
minh chứng cho tất cả mọi người trên thế gian này thấy rõ một chân lý lớn: Từ
một con người bình thường sống trong khổ đau triền miên, bị trói buộc trong
vòng
sinh tử luân hồi như bao người khác, nhờ vào sự nỗ lực cố gắng tu tâm
dưỡng tính đúng phương pháp của tự thân, hoàn toàn có khả năng giải thoát bản
thân
ra khỏi mọi sự ràng buộc, đạt đến an vui, tự do, tự tại với ý nghĩa toàn
vẹn
nhất.

Thích Hạnh Tuệ