Sơ Lược Ý Nghĩa Chữ Không Trong Đạo Phật

0
34

SƠ LƯỢC Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG
TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Nhật Từ

Vài
lời dẫn nhập

Tánh
“không” (S. ‘Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết
quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết
bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất. Các tác giả
chống Phật giáo thường không hiểu rõ hay ngộ nhận ý nghĩa
của hai chữ sắc và không trong đạo Phật. Họ lẫn lộn
hoặc lợi dụng vào hiện tượng đồng âm dị tự trong tiếng
Việt và Hán Việt, đánh đồng hai khái niệm hoàn toàn khác
nội dung làm một, để bôi bác giáo lý của đạo Phật. Hai
khái niệm đó là (i) phủ định từ “không [có] (natthitaa)
đối lập với có (atthitaa), và (ii) [tính] “không” (‘suunyataa)
tức tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng.
Ngoài ra, một số tác giả cũng vận dụng lối chơi chữ ngụy
biện
để đánh đồng hai khái niệm “khác nhau” khác có liên
hệ
mật thiết với hai khái niệm trên là “có” (atthitaa) và
“sắc” (ruupa). Có (atthitaa) là trợ động từ xác định, đối
lập
với “không có” (natthitaa), trạng từ phủ định. Sắc
(ruupa) là thuật ngữ Phật giáo chỉ cho “vật thể, xác thân
hay bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa.” Hai khái niệm này
mang 2 nội dung khác nhau hoàn toàn, ấy thế nhiều tác giả
ác kiến với đạo Phật thường cố giải thích sai lệch
cho chúng đồng nhau để xuyên tạc Phật giáo. Sau đây là
vài giải thích sơ bộ về ý nghĩa chữ không trong đạo Phật.

1.
“Không” và thiền định

Trong
kinh điển Nikaaya và Aagama, thuật ngữ “không” (S. ‘suunyataa,
P. su~n~nataa) thường được mô tả gắn liền với sự thực
hành thiền định
. Chẳng hạn như ở S. V. 311, từ “không”
với ý nghĩa “trống rỗng, cô tịch, tỉnh lặng, vắng vẻ”
được gắn liền với “phương pháp tu chánh niệm tỉnh thức
qua hơi thở ra vào” (aanaapaanasati):

“Này
các tỳ-kheo, hãy đi đến rừng (ara~n~naagato) hay đi đến gốc
cây (rukkha-muulagato) hay đi đến một nơi trống rỗng (su~n~naagaara-gato),
ngồi xếp bằng, giữ thân ngay thẳng, đặt chánh niệm trước
mặt
, thở ra vào một cách tỉnh thức.” Cũng cần nói thêm
rằng “nơi trống rỗng” (su~n~naagaara-gato) có nghĩa là nơi không
có cư dân, nơi hoang vắng, nơi cô tịch, chỉ chung cho các
khu đồi núi (pabbata), hang động (kandara), rừng rậm (vanapattha)
hay các khoảng trống (abbhokaasa). (Xem A. IV. 436-7; A. V. 207; M.
III. 115-6; S. I. 180-1, 106-7; M. I. 56; D. II. 291; A. V. 111).

Từ
đó, mệnh đề cầu khiến “hãy đi đến một nơi trống rỗng”
(su~n~naagaara-gato) đã mặc nhiên trở thành thành ngữ diễn
tả
sự thực hành thiền chánh niệm trong từng hơi thở ra
vào, hay nói chung, tu tập thiền định Phật giáo. Trạng thái
thiền định này thường được gọi là “an trú vào tánh không”
(su~n~nataa-vihaara). Đức Phật thường tán thán rằng:

“vị
thánh nào sống an trú ở nơi trống rỗng hay tánh không (su~n~na-gehaani)
thì thật là siêu tuyệt. Đó là cái rỗng không của ngã (atta-su~n~nato)
. . . Vị thánh sống ở nơi trống rỗng (su~n~naagaara) sẽ trở
nên bất động cho đến ngay cả một sợi lông cũng không
lay động” (S. I. 106-7; T. 2. 285b, 382a-b).

Phương
pháp
thiền quán về tánh không như vậy được gọi là “không
tam-muội” (‘suunyataa-samaadhi, concentrative meditation of emptiness),
tức thiền quán về tính không thực thể của ngã và các
sự vật. Đức Phật cũng khẳng định rằng an trú vào tính
không
(su~n~nataa-vihaara) chính là nơi an trú của các bậc vĩ
nhân về tu tập (mahaapurisa-vihaara). (xem M. III. 293-7; T. 2. 773b-c).

2.
Tánh không tức vô ngã


tánh không (‘suunyataa // su~n~nataa) là tính không thực thể của
ngã và các sự vật, nên tánh không còn được hiểu là “vô
ngã” (anatta). Điểm quan trọng này được đức Phật dạy
trong Kinh Tập qua đoạn trích sau đây:

“Này
Mogharaja, hãy nên luôn luôn chánh niệm và tỉnh thức để
từ bỏ quan niệm về ngã (attaanudi.t.thi”m uubacca) và hãy nhìn
thế giới rỗng không, không có thực thể (su~n~nato loka”m avekkhassu)”
(Sn. v. 1119).

Điều
này cho thấy rằng có mối liên hệ vô cùng chặt chẽ về
“sự từ bỏ một quan niệm ngã” và “nhận ra được thế giới
không có thực thể.” Nói cách khác thấy được tính không
của thế giới được lập cước trên thấy được vô ngã.
Được Aananda hỏi “thế nào gọi là thế giới không có thực
thể
(su~n~no-loko)?” đức Phật trả lời rằng:

Này
Aananda, gọi thế giới là không có thực thể là vì thế giới
không có ngã và những gì thuộc về ngã (su~n~na”m attena vaa
attaniyena vaa). . . Này Aananda, con mắt không có/phải ngã, không
có những gì thuộc về ngã (cakkhu su~n~na”m attena vaa attaniyena
vaa). Sắc thể (ruupa) không có ngã và những gì thuộc về
ngã. Nhận thức của con mắt (cakkhu-vi~n~na.na”m) không có ngã
và những gì thuộc về ngã. Sự tiếp xúc của con mắt cũng
không có ngã và những gì thuộc về ngã. Tương tự, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý cũng không có ngã, những gì thuộc về ngã.
Các cảm giác (vedayita”m) đau khổ, hạnh phúc hay trung tính
phát sanh từ sự tiếp xúc của ý (manosamphassa-paccayaa) cũng
không có ngã và những gì thuộc về ngã (S. IV. 54).

Cũng
cần nói thêm rằng trong triết học Phật giáo, khái niệm
thế giới (loka) chỉ cho 6 giác quan, 6 đối tượng của giác
quan
, 6 nhận thức của giác quan, 6 tiếp xúc và 6 cảm giác
từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng tương
ứng
của chúng. Do đó, “thế giới khôngthực thể (
ngã
) và không có những gì thuộc về ngã” có nghĩa là “6 giác
quan
,
6 đối tượng của giác quan, 6 nhận thức của giác quan, 6
tiếp xúc và 6 cảm giác từ sự tiếp xúc của 6 giác quan
với 6 đối tượng tương ứng của chúng” đều không phải
ngã, không có ngã và những gì thuộc về ngã. Nói cách khác
“tính không” của thế giới hay các sự vật cũng chính là
“tính vô ngã, tính không thực thể của ngã hay những gì thuộc
về ngã.”

3.
Tánh không tức duyên khởi, vô thường, vô ngã

Điểm
quan trọng mà những người xuyên tạc Phật giáo không biết
đến đó là tánh không (‘suunyataa // su~n~nataa) cũng chính là
duyên khởi (pa.ticca-samuppaada), và ngược lại, cái gì duyên
khởi
cái đó không thực thể. Theo Phật giáo, tính duyên khởi
của mọi sự vật hiện tượng cũng chính là đặc tính của
sự vật (S. dharma-sthititaa, P. dhamma.t.thitataa). Vì duyên khởi
cũng chính là tính “không” cho nên tính “không” chính là đặc
tính
của sự vật. Nói cách khác, đặc tính của sự vật
là không thực thể (không, ‘suunyataa) hay duyên khởi hay
ngã
. Chính vì thế đức Phật đã xác định rằng “những
lời dạy của đức Như Lai sâu sắc, thâm áo, siêu tuyệt
(lokuttaraa) đều có liên hệ đến tính không (su~n~nata-pa.tisa”myuttaa)”
(S. II. 267; T. 2. 345b). Ở một đoạn kinh khác, sự liên hệ
giữa tính khôngduyên khởi được xem là đặc điểm của
giáo pháp của đức Phật, khác hẳn với giáo pháp của Bà-la-môn
triết thuyết ngoại đạo:

“Ta
[Phật Thích-ca] dạy cho các tỳ-kheo giáo pháp này, thánh thiện,
siêu việt, có liên hệ đến tính khôngphù hợp với luật
duyên khởi” (S. II. 25, 267; T. 2. 84b, 345b).

Theo
lời Phật dạy, cái gì duyên khởi (pa.ticcasamuppanna) cái đó
vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Nhận thức này được
diễn tả qua mối quan hệ không gianthời gian của các
sự vật. Về phương diện không gian, tất cả các sự vật
là không thực thể hay vô ngã (sabbe dhammaa anattaa), trong khi
về phương diện thời gian, tất cả các sự vật duyên khởi
đều là vô thường” (sabbe sa”nkhaaraa aniccaa). Phương diện
đôi “vô thường và vô ngã” của sự vật sẽ dẫn đến sự
không thỏa mãn “(sabbe sa”nkhaaraa dukkhaa)” (xem Dhp. 277-9. Cf. S.
II. 26f; A. I. 286; GS. I. 264 ). Triết lý này được xem là đặc
điểm
duy nhất của giáo pháp của Phật Thích-ca (M. I. 380:
buddhaana”m saamukka”msikaa desanaa), so với các học thuyết của
các tôn giáo khác. Nói tóm lại, cái gì duyên khởi cái đó
là tính “không,” và cái gì duyên khởi cái đó vô thường
vô ngã. Cho nên, cái gì tính không cái đó là vô thường
vô ngã, và ngược lại, cái gì vô thường, vô ngã, cái
đó là duyên khởitính không. Chính vì thế, kinh Tăng Nhất
A-hàm đã định nghĩa: “Tính không là ‘cái này không phải
bản ngã của tôi, cái này không phải là tôi, và cái này
không phải thuộc về tôi” (T. 2. 715b-c)

4.
Tánh khôngtrung đạo

Theo
đức Phật, phương pháp thiền quán về tính khôngduyên
khởi
của các sự vật hiện tượng là một trong các cách
trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh
các hành một cách có hiệu quả. Sự an tịnh hành, chấm dứt
tham ái, hướng đến ly thamdiệt khổcon đường dẫn
đến niết-bàn (sabbasa”nkhaara-samatho sabbupadhi-pa.tinissaggo ta”nha-kkhayo
viraago nirodho: nibbaana”m, xem S. I. 136; M. I. 167; T. 2. 593a). Quá
trình nhận thức này được diễn ra qua hai giai đoạn, trước
nhận thức được tính chất của các pháp và sau là nhận
chân được niết-bàn (pubbe kho Susiima dhamma.t.thiti~n~naa.na”m
pacchaa nibbaane ~naa.nanti, xem S. II. 124; T. 2. 97b). Nhận thức
được tính chất của sự vật (dhamma-.thiti-~naa.na) tức là
nhận thức được các sự vật là duyên khởi hay tính không
(xem S. II. 25; T. 2. 84b). Kinh điển Phật giáo gọi người có
được trí tuệ về tính chất duyên khởitính không của
các pháp là người giải thoát bằng trí tuệ (P. pa~n~naa-vimutta,
S. praj~naa-vimukta), hay người thể nhập được “trung đạo”
(P. majjhimaa pa.tipadaa, S. madhyamaa pratipadaa). Nói cách khác, thấy
được tính duyên khởitánh không là thấy được “trung
đạo.”

Đức
Phật
gọi duyên khởicon đường trung đạo (majjhimaa pa.tipadaa)
vì nó tránh được hai cực đoan quan niệm (dvaya-nissito) của
hiện hữu (atthitaa) và phi hiện hữu (natthitaa). Cho rằng mọi
sự vật hiện hữu (sabba”m atthiiti) là một cực đoan (eko anto)
dẫn đến chủ trương thường kiến (sassatadi.t.thi). Cho rằng
mọi sự vật không hiện hữu (sabba”m natthiiti) là một cực
đoan
đối lập (dutiyo anto) dẫn đến chủ trương đoạn diệt
luận
(ucchedadi.t.thi). Từ bỏ hai cực đoan (ubho ante anupagamma)
này, đức Phật giảng trung đạo hay duyên khởi: “cái này
có nên cái kia có, cái này sanh nên các kia sanh, tức do
minh
nên hành hiện hữu; do hành nên thức hiện hữu; do thức
nên tổ hợp tâm vật lý hiện hữu . . . đây là toàn bộ
khối đau khổ.” Tương tự, do cái này không có nên cái kia
không có và do cái này hoại diệt nên cái kia hoại diệt,
tức do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức
diệt . . . đó là sự chấm dứt toàn bộ khối đau khổ” (S.
II. 17, 75).

5.
Phương pháp quán “không, giả và trung”

Chính
tánh không (‘suunyataa // su~n~nataa) là duyên khởi (S. pratiityasamutpanna),
vô ngã, là không thực thể, là khái niệm mặc ước (giả
danh
, S. praj~naptir upaadaaya), và là con đường trung đạo (S.
madhyamaa pratipat) để thoát khỏi các cực đoan quan niệm, phương
pháp
quán của Trung Quán Luận (Madhyamaka-Kaarikaa ‘Saastra) và
các tông phái lập cước trên Trung Quán Luận có tên gọi
là “không, giả, trung.” Khái niệm “giả” trong “giả danh” ở
đây không có nghĩa là “giả” đối lập với “thật” mà là
“tính mặc ước” tức “tính không thực thể” của các sự
vật hiện tượng. Bồ-tát Long Thọ phát biểu trong Trung Quán
Luận
của mình về mối quan hệ ba này như sau:

Ya.h
pratiiyasamupaada.h ‘suunyataa”m taa”m pracak.smahe/ saa praj~naptir upaadaaya
pratipat saiva madhyamaa// Apratiitya samutpanno dharma.h ka’scinna vidyate/
yasmaat tasmaad a’suunyo hi dharma.h ka’scin na vidyate// [kệ 18-9, chương
xxiv].

Ngài
Cưu-ma-la-thập dịch sát ra Hán văn:

Chúng
nhân duyên sanh pháp, ngã thuyết tức thị “không,” diệc vi
thị “giả danh,” diệc thị “trung đạo” nghĩa. Vị tằng hữu
nhất pháp, bất tùng nhân duyên sanh, thị cố nhất thiết
pháp
, vô bất thị “không” giả.”

Tạm
dịch ra tiếng Việt:

Tất
cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành,
do đó, tôi gọi đó là không (tức không thực thể) hay cũng
còn gọi là giả danh hay trung đạo. Vì chưa từng có một
sự vật hiện tượng nào mà không sanh ra từ duyên khởi,
cho nên tất cả các sự vật hiện tượng đều là không.”

Quán
tánh không của con người và các sự vật hiện tượng cũng
chính là quán tính không thực thể hay mặc ước (giả danh)
của chúng hay cũng chính là hướng đến con đường duyên
khởi
trung đạo.

6.
Ý nghĩa chữ “Sắc” trong “Sắc tức thị Không”

Chữ
“không” như vừa nói không có nghĩa là “không có” (natthitaa)
đối lập với “có” (atthitaa) mà là “tính không thực thể,
duyên khởi, vô thường và vô ngã” của các sự vật hiện
tượng
trong thế giới. Chữ “sắc” (ruupa) trong các mệnh đề
“sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát-Nhã Tâm
Kinh
hoàn toàn không có nghĩa là “có” (atthitaa) như nhiều tác
giả
chống đạo Phật đã ngộ nhậnxuyên tạc. Sắc là
thuật ngữ Phật giáo chỉ cho các hình thái hay tổ hợp vật
chất
(P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha, material form / aggregate) nói
chung. Sắc hay sắc uẩn (P. ruupakkhandha, S. ruupaskandha) có thể
dịch nôm na là “hình thể” hay “vật chất,” hay “hình hài con
người” trong ngữ cảnh “sắc uẩn trong ngũ uẩn.” Sắc bao
gồm
4 yếu tố căn bản (tứ đại, P=S mahaabhuuta-ruupa) là
đất (pa.thavi//p.rthivii), nước (aapa//aap), lửa (teja//tejas)
và gió (vaaya//vaayu). Bốn chất này cung ứng nguyên tử tạo
thành các đặc tính (S. lak.sa.na) hay hoạt động (S. v.rtti)
của cơ thể con người, chẳng hạn như chất rắn (S. khakkha.tatva),
chất lỏng (S. dravatva), nhiệt lượng (S. u.s.nataa) và không
khí hay sự vận động (S. iira.nakarman/ laghusamudiira.natva). Từ
4 yếu tố vật chất này có các yếu tố phát sanh (upaadaaya-ruupa)
như 5 cơ quan nhận thức (indriya), đó là mắt (cakkhu//cak.sur),
tai (sota//’srotra), mũi (ghaana//ghraa.na), lưỡi (jivhaa//jihvaa),
thân (P=S kaaya), và 5 đối tượng của chúng là hình thể (P=S
ruupa), âm thanh (sadda//’sabda), mùi (P=S gandha), vị (P=S rasa),
vật xúc chạm (pho.t.thabba//spra.s.tavya), và các bộ phận của
thân thể.

Theo
đức Phật, nhóm tổ hợp vật chất (sắc uẩn) trong 5 nhóm
nhân tính (năm uẩn) được hình thành từ các yếu tố vật
, được tinh cha trứng mẹ tạo ra, được thức ăn nuôi
sống, luôn trong tình trạng thay đổi liên tục. Khi phân tích
về sắc hay sắc uẩn, đức Phật không thừa nhận có một
thực thể (substantial entity) độc lậptrái lại ngài khẳng
định tổ hợp vật chất (sắc uẩn) này chỉ đóng vai trò
chức năngtùy thuộc vào mối quan hệ tương duyên và nhân
quả
với các hoạt động của tinh thần (naama-kkhandha) đó
cảm thọ (thọ), ý niệm hóa (tưởng), sự vận hành (hành)
nhận thức (thức). Chính vì sắc là tùy thuộc, duyên khởi
nên chúng không có thực thể (không): sắc tức thị không.
Nói dễ hiểu hơn, tất cả các hình thái vật chất (sắc)
đều là duyên khởi, vô ngã, và không có thực thể (không).
Chân lý này cũng đúng với quy trình ngược lại là “không
tức thị sắc” có nghĩa là “các sự vật duyên khởi, không
thực thể (không) cũng chính là các hình thái tổ hợp vật
chất
(sắc) mà thôi. Nói đến vật chất (sắc) là nói đến
tính vô ngã, vô thườngduyên khởi (không) của chúng,
cho nên nói rằng: “sắc bất dị không.” Tương tự theo chiều
ngược lại, đề cập đến tính vô ngã, vô thườngduyên
khởi
của các sự vật (không) cũng chính là nói đến bản
chất
của vật chất (sắc) không có thực thể, cho nên nói
là “không bất dị sắc.”

Nói
tóm lại, trong Phật giáo, khái niệm “sắc” (ruupa) không thể
bị đồng hóa với “có” (atthitaa), và tánh “không” (‘s’uunyataa)
không thể bị đồng hóa với “không có” (natthitaa). Hai cặp
từ này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó các giải thích
mang tính cách lạc dẫn cũng như xuyên tạc Phật giáo của
người khác đạo về ý nghĩa chữ “không” như “ngoan không”
hay “không có gì” không chỉ là các giải thích sai lầm
còn thiếu hẳn cơ sở để tồn tại.

Viết
tắt
A.
= A”nguttara-Nikaaya, I-V, ed. R. Morris, E. Hardy, C. A. F. Rhys Davids.
(London: PTS, 1885-1900)
D.
= Diighanikaaya, I-III, ed. T. W. Rhys David and J. E. Carpenter, (London:
PTS, 1889-1910)
M.
= Majjhimanikaaya, I-IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers, Mrs. Rhys Davids.
(London: PTS, 1888-1902)
S.
= Sa”myuttanikaaya, I-V, ed. L. Féer and Mrs. Rhys Davids. (London: PTS,
1884-1898)
T.
= Taishoo Shinshuu Daizookyoo, ed. J. Takakusu. (Japan: 1924-32)