Sự Khác Biệt Giữa Phật Pháp Và Ngoại Đạo

0
37

Đức
Phật
giảng về sự khác biệt của Phật nói và Ngoại Đạo
về
ý nghĩa của Thường.

Khi
ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :


Thế Tôn! Thế Tôn sở thuyết cảnh giới thường bất tư
nghì
của Đệ Nhất Thánh Trícảnh giới Đệ Nhất Nghĩa,
chẳng phải những Ngoại Đạo sở thuyết nhân duyên thường
bất tư nghì
ư?

Phật
bảo
Đại Huệ:


Chẳng phải nhân duyên đắc thường bất tư nghì của ngoại
đạo
. Tại sao? Thường bất tư nghì của những ngoại đạo,
chẳng do tự tướng thành. Nếu thường bất tư nghì chẳng
do tự tướng thành thì cớ sao được hiển hiện thường
bất tư nghì? Lại nữa, Đại Huệ! Bất tư nghì nếu do tự
tướng
thành thì ắt phải là pháp thường, nếu do người
làm ra thì chẳng thể thành thường bất tư nghì, vì do làm
mới có, chẳng phải thường có vậy.


Đại Huệ! Ta nói Đệ Nhất Nghĩa thường bất tư nghì, tướng
nhân thành Đệ Nhất Nghĩa là lìa tánh phi tánh, nên đắc
tướng tự giácvô tướng. Cái nhân của Đệ Nhất Nghĩa
Trí
, vì có cái nhân lìa tánh phi tánh, ví như hư không
tác
, Niết Bàn tận diệt, nên chính pháp ấy tự thường,
chẳng do tạo tác thành thường. Như thế, chẳng đồng với
định luận thường bất tư nghì của ngoại đạo.


Đại Huệ! Thường bất tư nghì này do chư Như Lai Tự Giác
Thánh Trí
chứng đắc, nên thường bất tư nghì của Tự Giác
Thánh Trí
, cần phải tu học.


Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại
đạo
chẳng có tánh thường, vì có cái nhân của tướng khác,
chẳng phải cái nhân của sức tướng tự thành. Lại nữa,
Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của ngoại đạo
sở tác, tánh phi tánh vô thường, theo kiến chấp suy tư tự
cho là thường.


Đại Huệ! Pháp ta cũng dùng nhân duyên như thế, vì tánh phi
tánh, chẳng lập sở tác, chẳng có thường kiến, nơi cảnh
giới
Tự Giác Thánh Trí, nói cái thường ấy tự vô nhân.
Đại Huệ! Nếu các ngoại đạo lập cái nhân tướng thành
thường bất tư nghì, lập cái nhân của tự tướng, nói tánh
phi tánh, thì đồng như sừng thỏ, vì pháp thường bất tư
nghì của họ chỉ có ngôn thuyết vọng tưởng. Các ngoại
đạo
có cái lỗi như thế. Tại sao? Vì chỉ có ngôn thuyết
vọng tưởng, đồng như sừng thỏ, chẳng phải do tự tướng
vốn sẵn đầy đủ.


Đại Huệ! Pháp thường bất tư nghì của Ta do tướng tự
giác
chứng đắc, lìa sở tác, tánh phi tánh, nên tự vốn
là thường, chẳng phải ngoài tánh phi tánh, suy nghĩ pháp
thường
cho là thường. Đại Huệ! Nếu ngoài tánh phi tánh,
pháp vô thường suy nghĩ cho là thường, là cái thuyết thường
bất tư nghì
của ngoại đạo. Vì họ chẳng biết cái tướng
của tự nhân thường bất tư nghì vốn saün đầy đủ, nên
xa cách với tướng cảnh giới đắc Tự Giác Thánh Trí, họ
chẳng nên thuyết.


Lại nữa, Đại Huệ! Các Thanh Văn sợ cái khổ của vọng
tưởng
sanh tử mà cầu Niết Bàn, chẳng biết tất cả tánh
sai biệt của sanh tử Niết Bànvọng tưởng phi tánh, do
cảnh giới các căn thôi nghĩ, cho là Niết Bàn, chẳng phải
chuyển Tạng Thức thành Tự Giác Thánh Trí vậy.



Thế nên, Phật đối với phàm phu nói có Tam Thừa, nói những
tâm lượng vốn chẳng thật có, họ chẳng biết cảnh giới
tự tâm hiện của chư Như Lai nơi quá khứ, hiện tại, vị
lai
, mà so sánh chấp trước cảnh giới ngoài tâm hiện, nên
thường lưu chuyển trong vòng sanh tử.


Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp vốn vô sanh, ấy là quá
khứ
, hiện tại, vị lai chư Phật sở thuyết. Tại sao? Nói
Tự Tâm Hiện, là tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sanh. Đại
Huệ! Tất cả tánh vô sanh thì tất cả pháp như sừng thỏ,
phàm phu ngu si, vì tự tánh vọng tưởng chấp cho là thật.


Đại Huệ! Tất cả pháp Vô Sanh, là cảnh giới của Tự Giác
Thánh Trí
, tất cả tướng tự tánh của tất cả tánh vốn
vô sanh, chẳng phải hai thứ cảnh giới vọng tưởng nhị
kiến
của phàm phu, kiến lập tướng tự tánh của sắc thân
sở hữu của thân. Đại Huệ! Chuyển cái tướng năng nhiếp,
sở nhiếp của Tạng Thứcphàm phu đọa vào nhị kiến
của sanh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh có sanh, sanh những
vọng tưởng hữu và phi hữu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Đức
Phật
nói về sự khác biệt giữa

Như Lai Tạng và Chơn Ngã
của Ngoại
Đạo
nói

Khi
ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :


Thế Tôn! Pháp sở thuyết trong kinh Phật nói Tự Tánh của
Như Lai Tạng vốn trong sạch thường trụ chẳng đoạn, chẳng
biến đổi. đầy đủ ba mươi hai tướng nơi thân của
tất cả chúng sanh, vì áo nhơ ấm, giới, nhập che khuất,
nên bị cấu bẩn vọng phân biệt tham, sân, si sở ô nhiễm,
giống như bửu vật vô giá ẩn trong áo nhơ. Mà ngoại đạo
có cái thuyết ” Chơn Ngã” là kẻ tác giả thường trụ, lìa
nơi y chỉ, tự tại chẳng diệt. Vậy, cái nghĩa ” Như Lai
Tạng
” của Phật sở thuyết, há chẳng đồng như cái thuyết
” Chơn Ngã ” của ngoại đạo ư?

Phật
bảo
Bồ Tát Đại Huệ :


Ta nói ” Như Lai Tạng ”, chẳng đồng với cái thuyết ” Chơn
Ngã ” của ngoại đạo. Đại Huệ! Ta có lúc nói Không,
Tướng
, Vô Nguyện, Như Thật Tế, Pháp tánh, Pháp Thân Niết
Bàn
, lìa tự tánh, Bất Sanh Bất Diệt, bổn lai tịch tịnh,
Tự Tánh Niết Bàn v.v… dùng những danh từ này để thuyết
Như Lai Tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh
Giác
muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ Vô Ngã của phàm phu,
nên nói cảnh giới lìa vọng tưởng, Vô Sở HữuNhư Lai
Tạng
.


Đại Huệ! Bậc Bồ Tát vị lai, hiện tại, chẳng nên sanh
ngã kiến chấp trước. Ví như thợ gốm nơi một đống đất
dùng phương tiện nhơn công, nước, cây, bánh xe quay để làm
ra các món đồ gốm, thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp
Vô Ngã
lìa tất cả tướng của vọng tưởng, dùng đủ thứ
trí huệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai Tạng,
hoặc thuyết Vô Ngã. Do nhân duyên này, nên cái thuyết Như
Lai Tạng
của ta chẳng đồng với cái thuyết chơn ngã của
ngoại đạo. Vì khai mở cái trói chấp ngã của các ngoại
đạo
, nên có cái thuyết Như Lai Tạng, khiến họ lìa vọng
tưởng
ngã kiến chẳng thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa
giải thoát
, mong họ chóng được Vô Thượng Bồ Đề. Cho
nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai
Tạng
như thế. Nếu chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại
đạo
. Cho nên, Đại Huệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo
cần phải y theo pháp Vô Ngã của Như Lai Tạngtu học.

Khi
ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ
rằng:

Nhơn
Ngã và ngũ ấm,


Nhân
duyên
với vi trần.


Tự
tánh
vốn tự tại,


Duy
tâm
vọng phân biệt.

Đây
Đức Phật phân biệt giữa
Thiền
của Phật dạy và Thiền của Ngoại Đạo


Lại nữa, Đại Huệ! Có bốn thứ thiền.

Thế
nào là bốn ? 1. Phàm Phu Sở Hành Thiền. 2. Quán Sát Nghĩa
Thiền. 3. Phan duyên hư Thật Thiền. 4. Như Lai Thiền.


Thế nào là Phàm Phu Sở Hành Thiền? Là nói Thanh Văn, Duyên
Giác
, ngoại đạo tu hành, quán nhân vô ngã tánh, tự tướng
cộng tướng, lóng xương liền nhau, vô thường, khổ, tướng
bất tịnh, v.v… do chấp trước làm gốc. Chỉ quán các tướng
như thế, chẳng quán cái khác, thứ lớp tiến tới, tướng
chẳng trừ diệt, ấy gọi là Phàm Phu Sở Hành Thiền.


Thế nào là Quán Sát Nghĩa Thiền? Nói quán nhơn vô ngã, tướng
cộng tướng, ngoại đạo, biết tự và tha đều vô tánh,
xong quán pháp Vô Ngã, Nghĩa hành tướng của Thập Địa Bồ
Tát
thừa, dần dần tiến lên, gọi là Quán Sát Nghĩa Thiền.


Thế nào là Phan Duyên Như Thật Thiền? Là nói vọng tưởng
: hai thứ Vô Ngãvọng tưởng; chỗ như thật thì chẳng
sanh vọng tưởng, ấy gọi là Phan Duyên Như Thật Thiền.


Thế nào là Như Lai Thiền? Nói nhập Như Lai Địa, đắc ba
thứ tướng trụ chánh định của Tự Giác Thánh Trí thì thành
tựu
việc bất tư nghì của chúng sanh, gọi là Như Lai Thiền.

Đây
Đức Phật giảng về
Niết Bàn


Ấn Độ hai đạo Hinduism (Bà La Môn Giáo) và Jainism (Kỳ Na
Giáo
) có từ thời Đức Phật cũng nói là đạo của họ tu
dạy chứng Niết Bàn khỏi sanh tử. Hai đạo đó hiện nay
vẫn dạy như vậy.

Đây
Đức Phật nói về
sự
khác biệt về ý nghĩa Niết Bàn.

Khi
ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :



Thế Tôn! Phật nói Niết Bàn, pháp nào gọi là Niết Bàn?
Mà các ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh
khởi
vọng tưởng khác nhau?

Phật
bảo
Đại Huệ :



Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.


Đại
Huệ Bồ Tát
bạch Phật rằng :



Cúi xin thọ giáo.


Phật
bảo
Đại Huệ :


Như vọng tưởng Niết Bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng
của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo
diệt ấm, giới,nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp
vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh
giới
quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết như ngọn
đèn
tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ
những cảnh giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng
do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.


Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo cho “từ phương này đến
phương kia” gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng
ấm
diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác
đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng
của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng
khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà
thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc
có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết
Bàn
. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng
cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng
hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc
ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có
ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánhsĩ phu,
giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh
tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự tánh, ví như Minh
(1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu
Na
dụ cho vi trần, cho Cầu Natác giả, nói từ vi trần
sanh tứ đại, cũng như từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp
Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết Bàn.


Hoặc có ngoại đạo nói hết phước và phi phước, hoặc
nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc
thấy Cõi Trời Tự Tại ( là Thượng Đế của Bà La Môn Giáo
tiếng Sanskrit là Mahesvara) là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử,
cho là Niết Bàn. Hoặc nói chúng sanh ở nơi này chết thọ
sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến
nay
, vô nhân tự có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có
nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết
Bàn
. Hoặc nói từ tự tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý,
ý sanh trí, trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ
tri căn
sanh ngũ nghiệp căn, ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại,
gọi là hai mươi lăm Minh Đế của tự tánh, hay sanh các pháp
rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh
Đế
này cho là đắc đạo Chơn Đế, tưởng là Niết Bàn.


Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp
sanh khởi công đức như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần
là năng tác, thế giớisở tác, tức là công đức, cho
Niết Bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai nhọn, như sự
lộng lẫy của con công và đủ thứ bửu vật, chẳng có kẻ
tác, vô nhân tự có, cho là Niết Bàn.


Đại Huệ! Hoặc có hai mươi lăm Minh Đế là chơn thật, và
cho Lục Đức Luận là 1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ
Đại
, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị là nhân sanh ra các pháp, nói
giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến
được an lạc tức là Niết Bàn. Hoặc cho thời gian là kẻ
tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng
Niết Bàn. Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là
tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết Bàn sai biệt
chẳng khác, tưởng là Niết Bàn. Đủ thứ vọng tưởng so
đo chấp trước của ngoại đạo sở thuyết, nơi lý chẳng
thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này vậy.


Đại Huệ! Niết Bàn vọng tưởng của ngoại đạo, tất cả
đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết Bàn.
Mỗi mỗi Niết Bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc
trí huệ quán sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai, trôi
giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập,
thật thì chẳng có kẻ đắc Niết Bàn.


Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự
tâm
hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú,
thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng
nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả
đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn
thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi
thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai
phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần
dần
lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm
sâu
, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết
Bàn
. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học,
chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của ngoại đạo.

Đây
Đức Phật nói rõ về
ý nghĩa Bất
Sanh
Bất Diệt
khác với trong Bà La
Môn Giáo
(Hinduism) và Kỳ Na Giáo (Jainism)

Khi
ấy, Đại Hụê Bồ Tát lại thừa oai thần Phật mà bạch
rằng :


Bạch Thế Tôn! Pháp Bất Sanh Bất Diệt của Thế Tôn hiển
thị
chẳng có gì lạ. Tại sao? Vì lập cái nghia Nhân của
tất cả ngọai đạo, cũng nói Bất Sanh Bất Diệt, Thế Tôn
cũng nói chẳng phải số lượng duyên diệt, là Niết Bàn
Bất Sanh Bất Diệt. Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân duyên sanh
thế gian, Thế Tôn cũng nói do vọng tưởng vô minh nghiệp
ái
làm duyên sanh khởi thế gian. Họ nói nhân, đây nói duyên,
ấy chỉ là danh từ sai biệt thôi. Nhân duyên các vật cũng
như thế, Thế Tôn với ngọai đạo lập luận chẳng có sai
biệt
. Ngoại đạo nói vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng
sanh
, chúa v.v… Có chín sự vật bất sanh, bất diệt; Thế
Tôn
cũng nói tất cả tánh bất sanh, bất diệt, hữu và
bất
khả đắc. Ngoại đạo cũng nói tứ đại chẳng hoại,
tự tánh bất sanh bất diệt, tứ đại thường là tứ đại,
cho đến luân hồi lục đạo mà chẳng xa lìa tự tánh; Thế
Tôn
sở thuyết cũng như thế. Cho nên con nói chẳng có gì
lạ. Nay cúi xin Thế Tônđại chúng thuyết pháp đặc biệt,
kỳ lạ hơn các pháp ngoại đạo. Nếu pháp chẳng sai biệt
thì tất cả ngoại đạo cũng đều là Phật,vì cùng nói Bất
Sanh
Bất Diệt vậy. Lại, Thế Tôn nói nơi một thế giới
mà có nhiều Phật ra đời là chẳng có chỗ đúng, nếu theo
lời sở thuyết trên thì trong một thế giới phải có nhiều
Phật, vì pháp ngoại đạo với Phật chẳng sai biệt vậy.

Phật
bảo
Đại Huệ :


Ta nói Bất Sanh Bất Diệt, chẳng đồng Bất Sanh Bất Diệt
của ngoại đạo. Tại sao? Vì các ngoại đạo họ chấp có
tánh của tự tánh để đắc tướng bất sanh bất biến, Ta
chẳng như thế mà đọa sự hữu và vô. Đại Huệ! Pháp Ta
nói lìa hữu và vô, lìa sanh diệt, phi tánh phi vô tánh, mỗi
mỗi pháp như mộng huyễn hiện, nên phi vô tánh. Nói Vô Tánh
sắc tướng chẳng có tự tánh nhiếp thọ, hiện như chẳng
hiện, nhiếp như chẳng nhiếp. Do đó nên nói tất cả tánh
vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác được tự tâm hiện lượng
thì vọng tưởng chẳng sanh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc
thế gian.