Đại Thừa Phật Giáo Chấp Không. Chân Như Hay Niết Bàn Chỉ Là Không Không

0
42


Tôi
được đọc một quyển sách của một pháp sư người Trung Hoa (bản dịch) và một quyển sách khác của một vị ni sư người Việt không nhớ rõ tên. Cả hai
vị đều cho rằng Đại Thừa Phật Giáo chấp Không. Chân như hay Niết Bàn chỉ là không không, chẳng có gì hết. Vậy xin ban biên tập TVHS vui lòng cho chúng tôi biết quan điểm?


(1)
Cho rằng “Đại Thừa Phật Giáo chấp Không. Chân như
hay Niết Bàn chỉ là không không, chẳng có gì hết
.”
hoàn toàn không đúng. Ngài Bồ Tát Mã Minh
luận chủ của Luận Đại Thừa Khởi Tín đã luận biện
rất rõ ràngĐại Thừa Phật Giáo phá chấp Không.

Trong
Luận Đại Thừa Khởi Tín, Ngài Mã Minh đã phá trừ 5 cái
quan niệm sai lầm về chấp bản Ngã là thật và phá luôn
quan niệm chấp thật về vũ trụ (chấp pháp) của chúng sinh
phàm phu. Trong đó có việc phá trừ quan niệm sai lầm
cho rằng Phật Giáo Đại Thừa chấp Không.

Hoà
Thượng
Thích Thiện Hoa đã giải thích lời của Ngài Mã Minh
như sau:

[Bắt
đầu trích dẫn]

“Chúng
sanh chấp pháp thân của Phật có hình tướng như thế này,
hoặc như thế kia v.v….Vì muốn phá các chấp sai lầm ấy,
nên Phật nói: “Pháp thân của Phật rốt ráo vắng lặng, cũng
như hư không”.

Nghe
trong kinh nói như vậy, chúng sanh trở lại chấp:”Hư không
pháp thân của Như Lai” vì phá cái chấp sai lầm này, nên
Ngài Mã Minh giải thích rằng:”Hư không là cái không thật
thể, do các sắc tướng mà thấy có hư không. Nếu không
sắc tướng thì cũng không có hư không. Cả sắc tướng
hư không đều do vọng tâm biến hiện; rồi chúng sanh lầm
chấp là thật có. Nếu vọng tâm hết thì sắc tướng
hư không cũng không còn. Lúc bấy giờ bản thể chơn tâm hiện
ra
, rộng lớn bao latrùm khắp tất cả. Đó là pháp thân
thanh tịnh
của Như Lai. Đây thuộc về phần tâm trí, không
phải như hư không, không có tri giác.”

“…Chúng
sanh thường lầm tưởng:”Các pháp thật có”. Vì phá trừ quan
niệm
sai lầm ấy, nên trong kinh Phật nói:”các pháp thế gian
hư giả không thật, cho đến các pháp xuất thế gian như Chơn
như
, Bồ Đề, Niết bàn v.v…rốt ráo cũng không có thật
thể, vì không có các hình tướng”.

Chúng
phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại chấp:”Chơn
như hay Niết bàn v.v…là cảnh giới hư vô ảo tưởng, chẳng
có chi hết”.

Để
đối trị sự chấp sai lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát
giải thích rằng:”Chơn như, Pháp thân hay Bồ Đề, Niết bàn
không phải là cảnh giới ảo tưởng hư vô, không có gì cả,
mà nó sẵn có đầy đủ vô lượng đức tánh, nhiều hơn
số cát sông Hằng, như: thiện, thường, lạc, ngã, tịnh,
giải thoát v.v….

[Hết
trích dẫn] PHẬT HỌC PHỔ THÔNG KHOÁ THỨ 10 và 11 LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

(2)
Trong môi trường biện biệt phân tranh của xã hội Ấn ở
những thế kỷ đầu Công nguyên, Bà La Môn giáo đưa ra sáu
mươi hai luận chấp về Ngã và Ngã Sở nhằm bảo hộ Ngã
Tính
của mình. Bồ Tát Long Thọ đã tuyên bố: “Nhất
thiết pháp Không
” tức “Hết thảy các pháp

Không
”.

Xin
giải thích: “Không” ở đây không có nghĩa là “không có”
theo sự hiểu biết thông thường bởi tâm thứcgiác quan
con người hay là “hư vô” theo cái gọi là hư vô chủ nghĩa,
mà là “không có thật như ta đã nhận thức”. Không ở
đây không có nghĩa là con số không (zero) đối lập với có,
mà chính là Śūnyatā trong Bát Nhã, nó vượt lên
trên mọi phân biệt, đối lập giữa sắc và không, giữa
không và có, tức là Tánh Không như bồ tát Long
Thọ
đã nói: “Chính vì “Không” nên tất cả các
pháp được dựng lập
”. Các “pháp” đây, kể cả
sắc pháptâm pháp, nghĩa là cả nhìn thấy được (visible)
và không nhìn thấy được (invisible). Và “Không” mà ngài
nói đây là Tánh Không, nó bao gồm cả 7 đại, luôn cả
Địa Đại là những cái hiện hữu rõ ràng, ai cũng nhìn thấy,
cùng với Không Đại, là những khoảng trống dù lớn
như hư không, thì cũng nằm gọn trong Tánh Không.

Thế
nên, có thể có một số ít người đã lầm lẫn
giữa cái không là không (zero) với Tánh Không hay Chân Không,
nên mới nói là “Đại Thừa chấp không”.

(3)
Tư Tưởng Luận Đại Thừa cho rằng Đại Thừa là “Chân-không
Diệu-Hữu
“. Chân-không nghĩa là hết thảy hiện tượng
đều không có tự tính, còn Diệu-hữu là chỉ sự tồn tại
của vạn pháp mặc dầu vạn pháp đó không có tự tính. Hai
quan niệm này không bao giờ lìa nhau, đó là đặc sắc của
nền Triết-học Đại Thừa.

(4)
Trong tất cả kinh Đại Thừa, bộ kinh căn bản nhất là bộ
kinh
Bát-Nhã. Số lượng của bộ kinh này tuy gồm sáu trăm
quyển nhưng chủ yếu không ngoài việc giải thích một chữ
“không”,”không không”,”đại-không”, rốt ráo là “không”, đó
lập trường của bộ kinh này. Chúng ta hãy xem “ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN”:

[bắt
đầu trích dẫn:]

“Nhưng
nếu lấy chủ ý của Bát-Nhã mà giải thíchchủ nghĩa
hư vô thì đó là một điều hết sức sai lầm. Cứ theo kinh
Bát-Nhã thì cái sức phủ định “không không” ấy lại biểu
hiện thành cái sức khẳng định tối đại tự do. Do cái
sức đó mà trong một ngọn cỏ có thể bao gồm trăm nghìn
vạn ức núi Tu-Di, và trong một giọt nước có thể chứa
tất cả nước của bốn đại dương. Đứng về phương diện
tâm lýnhận xét thì “không” của Bát-Nhã là cái năng động
thái thuần tuý, có thể nói nó là đương thể của ý chí
thuần tuý được thực hiện. Bởi vậy, Bát-Nhã cho rằng
hết thảy mọi hiện tượng đều do cái sức “không” đó biểu
hiện, thế giới là không, đồng thời không cũng là thế
giới
. Theo ý nghĩa đó thì cái không của Bát-Nhã không
phải là cái không trống rỗng, cái “ngoan không”, mà là cái
“Chân-Không Diệu-Hữu
“. Cái không ấy không thể dùng
nhôn ngữ mà diễn tả được, chỉ khi nào thể nghiệm được
nó bằng trực quan (intuition) ta mới có thể hiểu được một
cách hoàn toàn. Nhưng điểm khế cơ của cái không đó là
ở chổ nhân cách hoạt động, đặc biệt lấy việc từ thiện
(bố thí) đức hạnh (trì giới) nhẫn nại,nỗ lực (tinh tấn)
tỉnh-quán (thiền-định) nghĩa là lấy Lục-Ba-La Mật để
thể hiện. Như vậy ta có thể bảo đó là một chủ nghĩa
tiêu cực hư vô không?.


tưởng
“không” của Bát-Nhã là tư tưởng căn bản của Phật
Giáo
Đại Thừa. Sau cái Chân- Không phủ định đó vẫn có
cái nhân cách khẳng định Diệu-Hữu. Nếu ta bỏ qua điểm
này thì sẽ không thể hiểu được nghĩa căn bản của Đại
Thừa
. Đó là điểm ta nên chú ý trước hết. Ta có thể nói
hầu hết các kinh điển Đại Thừa đều xuất phát từ
tưởng
“không” của Bát-Nhã. Chẳng hạn như kinh Duy Ma thì
nội dung cũng nói đến Bát-Nhã, và ý nghĩa đặc biệt của
kinh này tôi đã trình bày qua ở các chương trước. Cư sĩ
Duy Ma thì hiện là một người thế tục, mà so sánh với các
vị Sa-môn xuất gia thì ông này lại thực hiện được
không
của Bát-Nhã một cách dễ dàng hơn. Nghĩa là vì muốn
thể hiện tư tưởng Bát-Nhã giữa thế giới hiện thực
thể hiện ra cư sĩ Duy-Ma. Trên căn bản, kinh Pháp-Hoa vẫn
cùng thuộc hệ thống Bát-Nhã, nhưng đã tiến thêm một bước
nữa mà phát hiện Diệu-Hữu là cái cụ thể cùng cực của
Chân-Không, ta có thể nói đây là một điểm trọng yếu
tư tưởng Bát-Nhã muốn đạt đến. Nói về thực tướng
của các pháp, tướng thường trụ thế gian. Bản thể của
Chân-Không là muốn hiển thị diệu nghĩa của thế gian, thể
hiện
được cái nhân cách không đó thì gọi là Phật, nghĩa
là nhân cách cụ thể thừa nhận tính vĩnh viễn thường còn,
bất biến; sau nữa, lấy nhân cách cứu thế hoạt động
cái bản nguyện của Bồ-Tát Quan-Âm là cứu khổ, cho vui làm
đại biểu cho sự sinh hoạt lý tưởng của con người. Thậm
chí như nàng Long Nữ chỉ mới tám tuổi mà cũng có thể thành
Phật
, đó là cái ý chỉ pháp thể chúng sanh đều có Phật
tính
đã được biểu hiện một cách rõ ràng và cũng là sự
kết cấu cùng cực của kinh Pháp-Hoa vậy. Sở dĩ kinh Pháp-Hoa
được tôn sùnghoàn toàn ở điểm đó. Bởi vậy ở phía
sau dự tưởng về Chân-Không của Bát-Nhã, thật thì đó là
phần diệu hưu hiển hiện về mặt khẳng định hoạt động,
coi đó thì thấy nó đã biểu hiện ý nghĩa thật sâu xa. Bất
luận trên lãnh vực lịch sử hay giáo lý, cách nhận định
này là cách nhận định chân chính của kinh Pháp-Hoa.

Thứ
đến là kinh Hoa-Nghiêm. Bộ kinh này tuy không kém kinh Pháp-Hoa,
nhưng đứng trên lập trường phiếm thần luận mà nhận xét
thì chủ ý của kinh Hoa-Nghiêm cho rằng vạn vật trong vũ trụ
đều hỗ tương dung thông, không ngăn ngại, không gián đoạn,
lập sự diệu dụng pháp giới để thể hiện Đại-Nhật-Như
Lai. Tuy nhiên nếu tìm đến nguồn gốc của vũ trụ đó, ta
vẫn thấy đã xuất phát từ tư tưởng “không” của Bát-Nhã.
Nghĩa là kinh Hoa-Nghiêm đã đem phần diệu dụng của Chân-Không
để biểu hiện về phương diện phiếm thần luận. Lại như
kinh Di Đà (hay kinh Vô-Lượng-Thọ), chủ ý lấy bản nguyện
của Phật A-Di-Đà dẫn dắt chúng sanh nhận Phật sinh về
nước Cực Lạc. Mới xem qua, ta tưởng như rất xa cách với
tư tưởng Bát-nhã. Song nếu ta tìm đến nghĩa lýlịch
sử
của tư tưởng đó, ta vẫn thấy tác dụng cứu tế của
đức Phật sáng suốt vô lượng, thọ mệnh vô lượng đã
được thể hiện từ chân không, đặc biệt là đã giải
thuyết
sự hoạt động ở tương lai. Không thế thì sự tín
ngưỡng
về Phật A-Di-Đà rốt cục chỉ là một mẩu chuyện
thần thoại, chúng ta cần phải ghi nhận điểm này.

Ngoài
ra
, nếu nghiên cứu tất cả các kinh điển Đại Thừa ta sẽ
thấy bất luận dưới hình thức nào, không một bộ nào mà
không liên hệ đến kinh Bát-Nhã. Nghĩa là, trong mỗi bộ nếu
ta không nhận thấy ý nghĩa “không” thì cũng nhận thấy phần
Diệu-Hữu. Tuy vậy, nếu ta lại đi sâu hơn nữa mà nghiên
cứu
ta có thể nói bộ kinh Đại Thừa nào rốt cục
cũng đưa đến nghĩa Chân-Không, đó là một điểm rất
ràng
. Nhưng giải thích như có vẻ quá ư phiền toái,
nhưng thật thì đạo lý đó khó có thể dùng ngôn ngữ làm
luận chứng trừ khi người ta đã thể hiện bằng kinh nghiệm
bản thân. Bởi thế đã có nhiều người, đặc biệt là những
học giả Tây phương thường cho Phật Giáo Đại Thừa chủ
ý
đưa người ta đến một chủ nghĩa hư vô. Đó chẳng qua
là người ta đã hiểu nghĩa Chân-Không một cách hời
hợt, và không có ý thức về Diệu-Hữu, cho nên mới chỉ
nhìn thấy mặt tiêu cực chứ không thấy phần tích cực của
tư tưởng Đại Thừa.
Chân-Không quan hệ đến Diệu-Hữu
chân lý triết học Đại Thừa, ta nên ghi nhớ rõ điểm
này.

Tóm
lại
, nếu nhận xét về phương diện khái niệm thì Chân-Không
tựa hồ như trống không, nhưng về phương diện thể hiện
thì lại rất cụ thể rất hiện thực. Như đã nói trên hoặc
theo lịch trình tiêu cực, nhưng tối hậu, bất luận về phương
diện
thực tế hay lý luận, đạt một kết luận sinh hoạt
thực tế và khẳng định đó là chủ ý của tư tưởng Đại
Thừa
.