Chế Ngự Năng Lượng Tình Dục

0
36


Con là Phật tử xuất gia ở trong nước, tuy xuất gia
nhưng thường bị vấn đề nam nữ quấy nhiễu. Vào mùa
hè trong chùa có các cô thiếu nữ mặc áo quần mỏng manh,
tâm lýsinh lý của người trẻ tuổi đương nhiên sẽ
có rất nhiều sự phản ứng. Xin hỏi người xuất gia
nên giải quyết vấn đề này như thế nào?

TRẢ
LỜI
:
Việc này rất khó! Trong nước khó, ở nước ngoài còn
khó hơn vì ở nước ngoài còn phóng khoáng hơn trong nước. Đây là sự khảo nghiệm của bạn, nếu bạn có thể vượt
qua
cửa ải này thì sẽ có thành tựu [sau này]. Nếu
không
vượt qua nổi cửa ải này, tốt nhất nên hoàn tục
kết hôn, làm Phật tử tại gia cũng tốt. Trong thời
đại
hiện nay, những người tại gia học Phật thành công
rất nhiều, các người niệm Phật ở trong và ngoài nước
vãng sanh có được tướng lành vô cùng hy hữu, [trong số]
người vãng sanh đích thật tại gia nhiều hơn xuất gia, vả
lại nữ nhiều hơn nam.

Người
trẻ tuổi nhất định phải biết tránh và giảm bớt tiếp
xúc
. Nhưng trên thực tế thì rất khó khăn, nguyên nhân
là hiện nay đạo tràng không có nguồn cung cấp tài chánh
và phải hoàn toàn nhờ vào sự cúng dường của tín chúng
tại gia
, cho nên [họ] không thể không giao thiệp, không tiếp
đãi
tín đồ. Vì vậy người chân chánh xuất gia nhất
định
phải tìm hoàn cảnh tịch tĩnh để tu học, nơi này
Thế Tôn gọi là ‘A lan nhã’.

Thời
xưa
chùa chiền được xây dựng trong núi sâu, ít có người
qua lại, giao thông bất tiện, hoàn cảnh tu học rất thanh
tịnh
. Nhưng ngày nay giao thông thuận lợi, tuy tòng lâm
tự viện xây trên núi cao vì sợ phiền hà, nhưng có đường
lộ dẫn lên tận chỗ, xe cộ cũng có thể lên núi, như vậy
thì
làm sao có thể tu hành? Vì vậy nên lựa chọn những
hoàn cảnh thanh tịnh, tách rời và cách xa thế giới bên
ngoài để tu học
, những nơi như vậy dễ [nuôi] dưỡng
đạo.

Người
trẻ tuổi học Phật thành tựu được đều dựa trên chữ
‘duyên’, tự mình phải xử lý nhân duyên tu học của mình
cho tốt đẹp. Duyên quan trọng nhất là thân cận thiện
tri thức
, đạo tràng, và bạn đồng tu. Đầy đủ ba
thứ duyên này thì có thể thành công.

Hoà
Thượng
Tịnh Không

Bài
đọc thêm:

ĐIỀU
KIỆN
TIÊN QUYẾT


theo
pháp
Lăng Nghiêm Đại Định.


HT.
Thích
Huệ Hưng Phỏng dịch

Các
kinh
lòng từ để nhiếp hóa chúng sanh nêu giới sát làm
đầu. Riêng kinh LĂNG NGHIÊM, nêu giới dâm đầu tiên, vì chơn
tu phải lấy sự ly dục làm gốc.


khí chất của tâm dục thô trược làm ô nhiễm tánh thể
diệu minh, tánh dục cuồng mê dễ làm mất năng lực chánh
định
, đọa lạc sanh tử che mất tự tánh chơn thường,
vì vậy giới dâm phải đứng đầu.

Tôn
chỉ
kinh này là đại định, mà dâm ái là điều tai hại
lớn cho môn định
, nên khởi đầu kinh lấy nguyên nhân
ông ANAN, em Phật, bị sa vào tay dâm nữ để khai thị–y cứ
vào hảo tướng trang nghiêm đầy công đức của Phật–ANAN
đã phát tâm tu hành, quên căn bản tánh dục tự tâm chưa
diệt sạch, nên đã bị ma nữ cám dỗ, liền bị sa ngã. Phật
bảo
ANAN:–Thế nào là nhiếp tâm? Ta gọi là giới. Trong luật
những tội có phân ra nặng nhẹ, mà tội dâm, sát, đạo,
vọng là nặng nhất.

Nói
về giới dâm, nếu chúng sanh trong sáu nẻo tâm không khởi
dâm, thì sanh tử sẽ chấm dứt. Chẳng những thân không phạm
dâm, tâm cũng không móng niệm. Chúng sanh vì từ nơi dâm mới
có tánh mạng, nên bị ràng buộc mãi trong vòng sanh tử. Nay
tu nhĩ căn tam muội viên thông, bổn ý ra khởi trần lao.

Nếu
tâm dâm không diệt thì hai món kiến hoặctư hoặc khó
hết làm sao ra khỏi trần lao sanh tử! Dẫu có nhiều trí tuệ
biện tài
thông suốt, thiền định hiện ra cảnh giới tốt
đẹp
, mà tâm dâm không dứt, lúc thiện định niệm dâm không
xã, suy tư lăng xăng, cảnh dục theo đó sẽ hiện ra. Tâm niệm
ở trong cảnh dục, mà cảnh dục chẳng khác cảnh ma, chắc
chắn
sẽ lạc vào đường ma. Tùy theo phúc báu dày mỏng,
có ba loại ma: Thượng, Trung, Hạ. Nếu không làm Ma Vương
thì làm ma dân hoặc ma nữ. Những người có chí xuất trần
quyết phải đoạn trừ thân dâm và tâm dâm. Thân dâm do từ
tâm
, tâm dâm do từ niệm rong ruổi sanh ra. Một niệm không
sanh thì thân tâm đều dứt. Nhưng tánh dứt trừ vẫn còn
thì cái ái dục, đối tượng của cái dứt trừ đó vẫn
chưa tiêu. Vì vậy cả ái dục và tánh dứt ái dục đều
tiêu trừ như bệnh và thuốc đều sạch mới gọi là người
hết bịnh, hầu mong đạt đến đạo quả Bồ Đề. http://www.thuvienhoasen.org/phaptu-lndd-04.htm

Sống
hài
hòa với năng lượng tình dục


Tỳ
Kheo
Pháp Dụng (Làng Mai)



Làm
con
người
, ai cũng có năng lượng tình dục. Vào khoảng 12,
13 tuổi thì năng lượng này trở nên quan trọng nơi một người
con trai, hay một người con gái. Có khi thì năng lượng này
khá mạnh và có khả năng khuấy rối tâm tư mình. Nhưng đây
lại là một chuyện rất bình thường. Năng lượng này có
thể có mặt ở trong ta cho đến ngày cuối cùng của cuộc
đời
. Vì vậy ta nên tập sống hòa bình với năng lượng
tình dục. Ta phải hiểu nó, thay vì chán ghét hay là chạy
theo
.


vậy
ta nên tập sống hòa bình với năng lượng tình dục.
Ta phải hiểu nó, thay vì chán ghét hay là chạy theo. Nếu không
hiểu, ta dễ dàng bị năng lượng này sai sử, làm những việc
mà sau đó ta hối hận. Nhưng học hỏi, tìm hiểu cần phải
phương pháp và có thời gian. Thiền tập giúp cho ta một
phương pháp cụ thể để nhận diện năng lượng tình dục.
Và chính lòng kiên nhẫn giúp cho ta có thời gian. Bài học
đầu tiên mà ta có thể áp dụng là:

1.
Công nhận rằng ai cũng có năng lượng tình dục, và ta không
nằm ngoài thông lệ đó.

Trong
khi sống đời sống hàng ngày, ta cần nhận diện mỗi khi
năng lượng này xuất hiện. Ta đừng ngạc nhiên hay xấu hổ.
Ta chỉ cần nhận diện: đây là năng lượng tình dục của
ta. Khi ta thấy được thì nó trở nên ít nguy hiểm hơn. Có
khi nó xuất hiện với một cảm giác thích thú, dễ chịu.
Nhưng nếu quan sát cho kỹ lưỡng thì nhiều lúc năng lượng
tình dục đi tới với một sự bức xúc. Nó mang tới cho ta
sự khó chịu, bất an. Nó bắt ta phải làm, phải nói những
việc, những lời mà ta không muốn. Cho nên ta có thể thấy
rõ là:

2.
Năng lượng tình dục thường mang tới cho ta sự bức xúc,
khó chịu và bất an.

Điều
này ít người nhìn thấy lắm, cho nên họ mới dễ dàng trở
thành
nạn nhân của năng lượng tình dục. Thiền tập giúp
ta thấy rõ được thực tại. Không có thiền tập, ta không
nhận diện được mặt mũi chân thật của năng lượng tình
dục
và có thể mãi mãi là nạn nhân của năng lượng này,
có người đã 70 tuổi rồi mà vẫn chưa thoát khỏi. Sở dĩ
chi phối ta là vì ta không thấy được bản chất của
nó. Trong đạo Bụt, sự giải thoát, tự do luôn luôn được
đặt nền tảng trên sự hiểu biết. Hiểu biết tức là trí
tuệ
. Mà hiểu được thì ta thương được. Ta biết đối
xử với năng lượng tình dục trong ta bằng một tấm lòng
cởi mở, từ hòa.

3.
Hãy tập đối xử với năng lượng tình dục bằng tấm
lòng từ hòa.

Bạn
đừng quá khó khăn với chính mình. Năng lượng tình dục
cũng chỉ chính là mình mà thôi. Nếu ta đối xử với năng
lượng
tình dục bằng sự hiểu biết thì ta đang chăm sóc
ta một cách rất hay. Mỗi khi năng lượng này phát khởi, ta
biết phải làm gì để chăm sóc nó. Chẳng hạn như ta đi
dạo. Cách hay nhất để giải tỏa sự bức xúc do năng lượng
tình dục mang tới không phải là đàn áp hay phán xét nó.
Hễ còn phán xét, đàn áp nó thì ta còn là nạn nhân của
năng lượng này. Ta nên chấp nhận sự có mặt của nó trong
tâm ta. Không phải là tiêu diệt được năng lượng tình dục
rồi thì ta mới có tự do. Tự do của ta được làm bằng
sự hiểu biếtcảm thông.

4.
Ta có thể sống hài hòa cùng với năng lượng tình dục
trong ta.

Ta
thường có khuynh hướng muốn tiêu diệt cái ta không ưa thích.
Oái oăm thay, năng lượng tình dục càng trở nên mạnh mẽ
hơn mỗi khi ta đàn áp nó. Nó là vùng năng lượng cứng đầu,
khó đối trị nhất ở trong tâm ta. Nhưng tại sao nó lại
khó đối trị? Là vì ta chăm sóc nó không đúng phương pháp.
Hoặc nói cách khác là ta không biết rằng mình cần phải
chăm sóc cho năng lượng tình dục. Biết chăm sóc thì nó lại
trở nên rất ngoan ngoãn và đôi khi lại giúp đỡ cho ta nữa.
Thật vậy, nhờ biết chăm sóc cho năng lượng tình dục
lòng từ bi, hay tình thương chân thật nơi ta được phát khởi
nuôi dưỡng. Nhận diện năng lượng tình dục giúp cho
ta phát khởi ra năng lượng từ bi.

5.
Biết sống hài hòa với năng lượng tình dục, tình thương
trong ta sẽ trở nên sâu sắc hơn.

Năng
lượng
tình dục không phải là xấu đâu bạn ạ. Thật ra,
cần thiết ở trong cuộc đời chúng ta. Và nó sẽ luôn
luôn có mặt trong ta. Nó chính là ta. Nếu ta biết thương nó,
thì ta cũng biết thương chính ta. Và trong ta còn nhiều vùng
năng lượng khác nữa, như là năng lượng giận, năng lượng
ghét. Cái giận hay cái ghét cũng cần được ta chăm sóc. Nếu
ta không nhận diện, quan sát, học hỏi, tìm cách chăm sóc
những vùng năng lượng này thì ta rất dễ dàng trở thành
nạn nhân của chúng. Muốn học nhận diện và chăm sóc thì
ta cần điều kiện gì? Bằng cách nào để ta nắm được
phương pháp thiền tập? Bằng cách là ta đừng sống đời
sống
ta một cách bận rộn. Ta cần thời gian. Muốn học điều
gì cho sâu sắc, ta cần nhất là thời gian.

6.
Ta cần thời gian rảnh rỗi để phát triển thiền tập
và chăm sóc năng lượng tình dục của ta hiệu quả hơn.

Nhận
diện
năng lượng tình dục là một thực tập không phức
tạp
. Nhưng nhận diện chính là căn bản của thiền tập.
Trong thiền tập, ta có thể đạt tới hiểu biết là nhờ
ở sự nhận diện này. Và sự thực tập này chỉ mang tới
kết quả khi ta hành trì liên tục, không gián đoạn. Ta cần
niềm tin vững chắc vào sự hành trì của mình. Và ta cần
quyết tâm đối xử với năng lượng tình dục bằng một
lòng thương mà thôi. Mỗi ngày, ta cần lập đi lập lại sự
thực tập của ta. Chẳng hạn như ta tập ngồi thiền mỗi
ngày. Có người khi ngồi thiền thì thích quán chiếu những
đề tài cao siêu nhưng không hề biết chăm sóc cho năng lượng
tình dục ở trong chính mình. Kết quả là mỗi khi năng lượng
tình dục biểu hiện thì ngơ ngác, không biết gì hết và
hoàn toàn hành xử trong vô minh. Ta sẽ bị năng lượng tình
dục
sai khiếncảm thấy sự tu tập của mình không thành
công
.

7.
Nhận diện, quán sát và chăm sóc năng lượng tình dục
ta sẽ tháo gỡ được sự ràng buộc của vùng năng lượng
này.

Ta
đừng quên rằng sự thật thứ nhất là khổ đế. Khổ đau
là một sự thật mầu nhiệm vì nó chỉ cho ta thấy con đường
vượt thoát khổ đau. Năng lượng tình dục là một vùng năng
lượng
khổ đau trong ta. Ta thường lẫn lộn đây là hạnh
phúc
. Vì lẫn lộn cho nên ta bị nó ràng buộc. Ta phải thấy
nó là khổ đau. Nhưng tại sao khổ đau lại là một sự thật
mầu nhiệm? Vì khổ đau chứa trong nó mọi yếu tố cần thiết
để làm ra hạnh phúc. Năng lượng tình dục giúp cho ta chế
tác ra tình thương và sự hiểu biết. Năng lượng tình dục
luôn luôn có mặt trong ta. Đó là một điều hết sức bình
thường
. Đó là một vùng năng lượng hết sức thiết yếu.
Ta không nên có thái độ đam mê hay thù ghét đối với vùng
năng lượng này. Ở trong người trẻ, vùng năng lượng này
có thể rất mạnh. Nhưng ở người lớn tuổi, nó vẫn hoạt
động
âm thầm, mạnh mẽ. Ta chỉ có thể thoát khỏi nó bằng
con đường quán chiếu của thiền tập. Nhìn sâu để hiểu,
để thương là con đường Bụt đã dạy giúp ta áp dụng
tháo gỡ những khó khăn của ta trong đời sống hàng ngày.

8.
Chăm sóc cách ăn uống là một cách chăm sóc cho năng lượng
tình dục rất hay.

Nếu
ăn vừa đủ, đừng dư thừa quá mức thì nhu cầu tình dục
cũng sẽ bớt lại. Có thể chúng ta ăn quá nhiều, quá dư
thừa và năng lượng dư thừa sẽ chuyển thành năng lượng
tình dục. Bớt ăn, ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thư thái
hơn. Ăn chay cũng là một cách tiết dục rất có hiệu quả.
Nếu không quen ăn chay, ta có thể tập ăn mỗi tuần một ngày
hay hai ngày. Ta đừng cho rằng ăn chay là một sự chịu đựng,
khổ hạnh. Ăn chay rất ngon. Và khi ăn chay, ta có thể nấu
những món mà ta và gia đình ưa thích. Dành một khoảng thời
gian
thoải mái để nấu ăn cho gia đình là một điều nên
làm. Tôi nhắc lại: ăn chay hay ăn bớt lại không phải là
một hình phạt đối với thân thể ta. Ta cần phảihạnh
phúc
trong khi ta thực tập. Và đối với những bạn trai tôi
dặn điều này: rượu bia thường làm cho năng lượng tình
dục
phát khởi. Ta nên bớt uống bia, uống rượu lại. Không
uống bia, uống rượu thì càng hay hơn nữa.

9.
Tập tiêu thụ những sản phẩm sách báo, phim ảnh không
chứa quá nhiều yếu tố kích thích năng lượng tình dục
nơi ta.

Trong
xã hội bây giờ, phim ảnh và sách báo thường chứa hình
ảnh
kích thích tình dục. Những cuốn sách hay, phim hay, không
hẳn phải chứa những yếu tố kích thích này. Chọn sách
hay là một nghệ thuật mà ta phải cần học hỏi. Trong giới
thứ năm của đạo Bụt có dạy ta không nên tiêu thụ những
sản phẩm có độc tố. Điều này có nghĩa là ta cần tiêu
thụ
những sản phẩm có tính chất nuôi dưỡng, dù đó là
thức ăn đi vào ta bằng đường miệng hay là bằng tai, bằng
mắt. Có những cuốn phim được làm ra để kích thích năng
lượng
tình dục. Nhưng cũng có những cuốn phim là để trao
truyền cho ta tình thương và sự hiểu biết. Nếu xem được
một cuốn phim hay và lành mạnh, ta nên giới thiệu cho bạn
bè ta cùng thưởng thức.

10.
Tập chơi một môn thể thao để cơ thể ta biết sử dụng
năng lượng vào mục đích lành mạnh.

Ta
có thể tập chơi đá banh, bóng bàn, bóng rổ… Điều này
tùy thuộc vào sự ưa thích của ta. Nhưng ưa thích cũng chỉ
là một thói quen. Nếu ta tập chơi bóng bàn một hồi thì
ta cảm thấy thích thú. Ở trong tu viện, chúng tôi cũng chơi
thể thao. Hoặc cũng có những thầy, những sư cô thích đi
bộ. Mới hôm qua đây, chúng tôi cùng nhau đi bộ hai tếng
đồng hồ quanh một khu lâu đài rất đẹp của xứ Pháp.
Đi xong, chúng tôi rất đói bụng, ngồi xuống và lấy thức
ăn
ra ăn với nhaucảm thấy tình huynh đệ trong thiền
môn
rất là nuôi dưỡng. Trong gia đình, trong nhóm bạn ta nên
rủ nhau chơi thể thao, vận động cơ thể và đó cũng là
một cách nuôi dưỡng tình thương trong nhau. Hai vợ chồng
cũng có thể cùng chơi một môn thể thao. Ở Đài Loan, những
cặp vợ chồng thường áp dụng phương pháp này để giải
tỏa bớt sự áp bức của năng lượng tình dục. Và chơi
thể thao cũng là để nuôi dưỡng niềm vui chớ không phải
là một khổ hạnh, hành xác. Trong thiền tập, sự hành trì
phải đi chung với niềm vui. Tu không phải là ép xác. Dù đó
là sự cưỡng ép xảy ra trong phạm vi cơ thể hay tinh thần.

11.
Ta cần một hướng đi tâm linh để dẫn dắt năng lượng
tình dục phát triển đúng hướng.

Ngày
hôm nay người ta thường dùng danh từ ‘tâm linh’ để thay cho
từ ‘tôn giáo’. Người ta nhận ra là trong tôn giáo, chất liệu
tâm linh có thể rất nghèo nàn. Con người có thể có tôn
giáo
nhưng lại không có hướng đi tâm linh. Hướng đi tâm
linh
mang đến sự lớn lên chuyển hóa những tri giác sai lầm
mở rộng không gian trong tâm thức con người. Tôn giáo
cũng bắt đầu từ chất liệu tâm linh, nhưng có thể dần
đi vào huynh hướng giáo điều, khiến cho người trẻ cảm
thấy
xa lạ. Và cuối cùng thì tôn giáo không còn có khả
năng trả lời cho người trẻ những thắc mắc, khổ đau của
họ. Thiền tập cần phải mang nội dung tâm linh. Thiền môn,
từ Lục tổ đã mang đậm nét không chấp vào hình thức.
Ta cần thực tập như thế nào để sự hiểu biếttình
thương
phát triển trong ta, chuyển hóa tự thân và gia đình
ta. Năng lượng tình dụcmột sinh vật sống. Nó phát triển
không ngừng cả ngày lẫn đêm. Nhưng nó phát triển về hướng
nào? Nếu ta có một hướng đi tâm linh, năng lượng tình dục
sẽ được chuyển hóa và bồi đắp cho chất liệu tâm linh
đó.

12.
Ta cần một cộng đồngtu tập để làm nền tảng chăm
sóc và chuyển hóa năng lượng tình dục.

Một
ngôi chùa hay một trung tâm tu học gồm có những người đang
hành trì miên mật là một nơi lý tưởng cho ta nương tựa
để tu học. Đó là một môi trường lành mạnh. Sống trong
một môi trường lành mạnh, sự chuyển hóa của ta xảy ra
nhanh hơn. Khi trong gia đình có một người hạnh phúc, thì
hạnh phúc đó lan ra những người chung quanh. Trong một môi
trường có những người biết tu tập, thì ta sẽ hưởng được
năng lượng tu tập chung đó. Nếu trong ngôi chùa có sự tu
tập
thì nơi đó sẽ trở thành đất lành cho chim đậu. Ta
cần nhiều ngôi chùa như vậy. Người trẻ có thể đến những
ngôi chùa đó ở lại một, hai tuần để tu tập. Họ nghe
pháp
thoại, ngồi thiền, đi thiền và pháp đàm về những
vấn đề họ đang vấp phải. Họ học nâng đỡ để tháo
gỡ
những vấn đề đó. Nhiều ngôi chùa như vậy sẽ tạo
ra một xã hội lành mạnh. Nhưng ta đừng chờ đợi gì cả.
Ta phải bắt đầu thực tậpnếu cần ta có thể thành
lập
một nhóm tu tập chung tại nhà ta. Nhà ta sẽ trở thành
một ngôi chùa.

Tôi
đã viết ra mười hai đề nghị giúp ta thực tập sống hài
hòa với năng lượng tình dục. Điều này ai cũng cần học
hỏi
cả, dù ta là em nhỏ 12, 13 tuổi, một thanh niên trưởng
thành
, một người đã có gia đình hay một người ở tuổi
trung niên, lão niên. Năng lượng tình dục có khả năng gây
đổ vỡ rất lớn ở trong gia đình và trong xã hội. Ta có
thể bị nó chi phối và tạo ra một sự tan nát khó hàn gắn.
Nhưng nếu biết cách, năng lượng này lại có thể giúp ta
hiểu biết hơn, thương yêu hơn và kiên nhẫn hơn. Cái đó
sức mạnh của thiền tập. Thiền tập không phải để
gây ra một cuộc chiến tranh giữa thiện và ác. Thiền tập
là để giúp ta chuyển hóa những vùng năng lượng tiêu cực
thành ra những vùng năng lượng tích cực và giúp ta sống
hạnh phúc ngay trong đời sống hàng ngày.




Tỳ
Kheo
Pháp Dụng (Làng Mai)


TÌNH
DỤC
LÀ GỐC CỦA KHỔ


Lâm
Thanh
Huyền – Việt dịch: Minh Chi

Tình
dục

là gốc của khổ. Bởi vì có tình, có dục là có chấp
trước
. Trong kinh “A Hàm” có câu chuyện kể Phật Thích
Ca
một lần cùng với học trò đi tản bộ bên bờ sông Hằng.
Phật hỏi các học trò: “Các người nói xem nước bốn đại
dương nhiều hay là nước mắt chúng ta đổ ra vì trong quá
khứ
phải biệt ly với người thân, bên nào nhiều hơn?”

Các
học trò trả lời: “Nước mắt đổ ra nhiều hơn”.

Đức
Phật
tỏ ra vui vẻ, vì học trò của mình đã trả lời đúng,
chúng ta từ vô số kiếp đến nay, đã bao lần khóc vì mẹ
cha chết, con cái chết, bạn bè thân thuộc, cùng người mình
yêu thương ly biệt… thu thập tất cả dòng nước mắt ấy
lại nhiều hơn nước trong bốn bể.


tình dục là có đau khổ, bi ai, nước mắt chảy. Tình dục
đúng là gốc của đau khổ. Cái khổ đó là do chấp trước.
Chấp trước vào tình dục cho nên đau khổ.


Nếu
anh
có người bạn, bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ,
anh không cảm thấy đau khổ, nhưng nếu bản thân anh bị người
yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh sẽ cảm thấy rất đau khổ,
bởi vì anh cảm thấy đối phương, tức người mình yêu là
“của anh”. Nhưng sự thực không phải như vậy, đối phương
không phải là do anh đẻ ra, dựa vào đâu mà nói rằng là
“của anh”, thân thể, tư tưởng, ý nghĩ đều là của cô
ta, đâu phải là của anh. Chỉ cần anh nhận thức rõ, cô
ta không phải là của anh, thì anh sẽ bớt đau khổ. Anh khổ
là vì anh chấp trước cô ấy là của anh.


sao chúng ta đau khổ khi phải từ bỏ thế giới này? Là vì
chúng ta không muốn từ bỏ cái thân này. Nếu chúng ta không
chấp
trước cái thân này, chúng ta sẽ không đau khổ. Có
rất nhiều thanh niên vì thất tình nên đến tìm tôi. Trong
số này, có người muốn quyên sinh để làm cho người mình
yêu khổ cả đời. Tôi trả lời: “Anh tự tử thì chỉ có
anh đau khổ mà thôi. Người yêu của anh đâu có khổ, nếu
cô ta là người tốt thì có chịu khổ nữa năm cũng chịu
không nổi. Còn các cô gái khác thì đại khái khổ một tháng
hoặc nửa tháng, hay là đi viếng anh một bó hoa trắng. Nếu
người yêu định sớm từ bỏ anh mà anh tự sát, thì có khác
nào cô ta cởi bỏ gánh nặng, mừng thầm trong bụng”.

Cái
vui, cái buồn của một người, do chính người ấy làm chủ.
Cái vui, cái buồn của người khác làm sao chúng ta khống chế
được. Chúng ta đau khổ là vì chúng ta tưởng có thể làm
chủ được sự đau khổ của người khác. Kỳ thực, tự
sát
chỉ là mình tự làm khổ mình, người khác không đau
khổ
. Bạn trai, bạn gái của người thất tìnhtự sát,
về sau đều kết hôn, lấy vợ, lấy chồng cả và sống hạnh
phúc
.


bản chất tình dụcthống khổ, cho nên tình dục vĩnh
viễn
không thể nào thỏa mãn đầy đủ được. Đau khổ
là có chấp trước. Không phải chỉ có chúng taphàm phu
mới chấp trước. Có những người tu hành rất tốt cũng
chấp trước.




Trong
kinh
“A Hàm” kể một câu chuyện rất thú vị: Sau khi đức
Phật
Thích Ca thành đạo, có rất nhiều đệ tử đi theo Ngài.
Nhưng, trong đó, có rất nhiều người vẫn còn chấp trước.
Người xuất gia không có gì làm vui, có người thu thập nhiều
bát ăn, có bát bằng vàng, bằng bạc, bằng ngọc, mỗi ngày
đổi dùng một bát. Phật Thích Ca biết được bèn răn dạy
người học trò đó không được chấp trước vì ngay cái
bát ăn cơm mà không xả được thì làm sao có thể giải thoát?

Những
vấn đề giống như vậy rất là nhiều. Trong số người học
Phật, có người rất thích sưu tầm tượng Phật, trong nhà
có tới hàng trăm tượng Phật, có người thu thập nhiều
vòng tràng hạt, nhưng lại không niệm Phật, kiểu chấp trước
như vậy rất là nhiều.

Người
tu hành theo Tiểu thừa, thì nhờ đoạn trừ tình dục
được giải thoát
. Còn người tu hành theo Đại thừa thì
dùng phương pháp khác. Họ nói: “Phiền não tức Bồ đề;
không đoạn trừ hết thẩy tình dục mà vẫn chứng được
trí tuệ
Bát nhã, không đoạn trừ phiền não mà vẫn chứng
được Niết Bàn. Nói một cách nôm na, tức là triển khai
tâm địa rộng lớn để chuyển hóa sự chấp trước của
tình dục
, dùng “tính không” của trí tuệ để “bao
dung” tất cả mọi phiền não, chứ không phải là trực tiếp
đoạn trừ phiền não.

CHUYỂN
HÓA
TÌNH DỤC

Phật
giáo
Đại thừa không đoạn trừ phiền não, không đoạn trừ
tình dục, mà là chuyển hóa tình dục, cũng tức là lấy trí
tuệ Bát Nhã
để chuyển hóa tham, sân, si.

Bồ
Tát
thường giảng 8 chữ: “Đồng thể đại bi, vô duyên
đại từ
”. Đó chính là nói về chuyển hóa tình dục,
khuyên chúng ta không phải đoạn trừ cha mẹ mình, như vậy
là khác với việc đoạn trừ tình cảm đối với cha mẹ.

Chúng
ta
có thể yêu thương cha mẹ, nhưng đối với mọi người,
chúng ta cũng yêu thương như cha mẹ chúng ta vậy. Thương yêu
con cái mình, cũng phải thương yêu con cái của thiên hạ.

Dùng
phương pháp đó để chuyển hóa tình dụcphiền não, tức
là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.

Khi
một người mở rộngchuyển hóa lòng từ bi và trí tuệ
thì tình dục cũng tùy theo mà được chuyển hóa.

Rất
nhiều người tu hành theo Mật Tông. Mật Tông có một vị
Hộ Pháp lớn nhất gọi là “Ma hợp Hạt Lai Đại hắc thiên”.
Ông ta trước khi tu hành vốn là một người rất hung bạo
hay giận dữ, Bồ Tát Quan Thế Âm muốn độ cho ông bèn
hóa thân làm vợ ông để chuyển hóa ông. Sau khi được chuyển
hóa
, ông giữ tính tình hung bạo và hay giận giữ, nhưng ông
lại là vị Hộ Pháp rất vĩ đại của Phật giáo. Theo lời
kể thì mỗi lần ông ta xuất hiện đều có mưa đá từ trên
trời
dội xuống, cục đá nào cũng rất to làm cho tất cả
tà ma ngoại đạo phải sợ hãi bỏ chạy, nghe tên ông, tiếng
ông tất cả đều sợ hãi khiếp đảm.


Ấn Độ cổ đại hay Trung Quốc cổ đại người tu hành thường
phong cách rất trong sáng như Bồ Tát Quan Thế Âm là người
hết sức từ bi, Bồ Tát Văn Thù là người rất có trí tuệ
, đó là không phải đoạn trừ nhân cách mà là nâng cao hoàn
thiện
nhân cách.

Chuyển
hóa
nhân cách, không phải là đoạn trừ nhân cách cho nên
trong lịch sử, các Thiền sư đều là những người rất sống
động
và có phong cách cá biệt. Có người thì mềm mỏng,
nhu hòa, có người thì như ù ù cạc cạc, có người thì la
hét đánh gậy. Trong sách Thiền tông, thậm chí có ghi trường
hợp
thầy cắt ngón tay học trò, nhảy xuống từ vách núi
cao, cắt bắp vế v.v… những Thiền sư đó đều có phong
cách vĩ đại. Vì họ đã chuyển hóa được nhân cách, tình
cảm của mình, đồng thời cũng duy trì đặc tính của mình.

Nếu
đoạ n trừ hoàn toàn phong cách vốn có của mình để được
giải thoát
, thì mọi người sẽ giống nhau tất cả.

Người
con hiếu thuận với cha mẹ, không rời bỏ cha mẹ mình được,
thì cũng không rời bỏ cha mẹ thiên hạ được. Người cha
yêu thương con cái của mình, không rời bỏ con cái của mình
được, có thể hay không, cũng không rời bỏ con cái của
thiên hạ. Không rời bỏ được chồng vợ, thì cũng một
lòng thương yêu chồng vợ người khác! Đó gọi là chuyển
hóa
tình dục, mở rộng lòng từ, lòng bi và trí tuệ .

Thiền
Hoàng Bích rời bỏ bà mẹ cô đơn của mình, dù trong lòng
có chút vướng mắc. Nhưng ông nghĩ tới chúng sanh, chúng sanh
cũng có mẹ, chứ không phải riêng mình có mẹ phải cứu
độ
. Đó chính là tâm trạng của người tu theo Đại thừa:
Không quên người mẹ của thiên hạ. Một thí dụ của bậc
tu hành đã giác ngộ rồi mà không để mất cuộc sống tình
cảm, là Phật Thích Ca.


Sau
khi
thành đạo, Phật đã nhiều lần trở về tổ quốc cứu
độ
cho cha rồi lại lên cõi trời, cứu độ cho mẹ! Sau lại
cứu độ cho em, cho vợ, cho con. Nhờ vậy mà về sau, cả nhà
đều theo Ngài xuất gia.

Phật
không có đoạn trừ tình cảm trong lòng mình, không những
hóa độ cho người nhà mà còn hóa độ cho tất cả chúng
sanh
.

Sau
khi Phật Thích Ca thành đạo, cả nhà đều theo Ngài xuất
gia
, chỉ trừ có người em là Nan Đà, là người duy nhất
còn ở lại để thừa kế ngôi vua, cho nên vua Tịnh Phạn
rất lo lắng và sợ Nan Đà xuất gia. Vua quản Nan Đà rất
chặt, bắt Nan Đà suốt ngày trong hoàng cung. Vợ Nan Đà cũng
rất nghiêm, mỗi lần Nan Đà ra khỏi cung, nàng đều điểm
trên trán một điểm son, quy định trước khi son khô thì Nan
đà
phải trở về cung. Vợ Nan Đà là người rất xinh đẹp,
được Nan Đà hết lòng yêu thương. Để người vợ khỏi
phải lo lắng, Nan Đà mỗi lần ra vào cũng đều rất khẩn
trương, tất bật.

Một
ngày, Phật Thích Ca biết nhân xuất gia của Nan Đà đã chín
muồi
, bèn đến trước hoàng cung khất thực. Nan Đà dự định
cầm bát thức ăn đi ra để cúng dường thì vợ không chịu.
Hai bên cãi nhau một hồi, cuối cùng, theo lệ thường, người
vợ điểm trên trán Nan Đà một điểm son, quy định Nan Đà
xong việc phải về ngay, không được bắt chuyện với Phật
Thích Ca.

Nan
Đà
không có bắt chuyện với Phật Thích Ca, nhưng Phật bảo
Nan Đà đi theo mình, và Nan Đà đi theo. Đi được một vài
bước, bèn xóa sạch điểm son trên trá n mình và theo Phật
xuất gia. Sau khi xuất gia, Nan Đà rất nhớ vợ, Phật bèn
hỏi vì sao Nan Đà nhớ vợ đến thế. Nan Đà trả lời: “Cô
ta đẹp quá đẹp không ai bằng”. Phật bèn đưa Nan đà đi
Đông Hải chơi, thấy xác một phụ nữ còn đẹp hơn vợ
của Nan Đà nữa. Phật bảo Nan Đà : “Chú có thấy không?
Cô gái này hết sức đẹp: con dòi trên mặt cô ta chính là
cô ta biến thành vì cô ta tự cho mình quá đẹp, không từ
bỏ
sắc đẹp ấy được, cho nên sắc đẹp là cái không
nên nương tựa”.

Qua
sự việc xảy ra, Nan Đà nỗ lực tu hành nhưng lòng nhớ vợ
vẫn không nguôi. Phật Thích Ca thấy Nan Đà còn thích sắc
đẹp, bèn đưa Nan Đà lên các cõi Trời. Thiên nữ trên cõi
Trời
người nào cũng đẹp hơn vợ Nan Đà hàng nghìn vạn
lần. Nan Đà hỏi: “Có nhiều thiếu nữ xinh đẹp dường
này; sao lại không có nam giới”. Một thiên nữ trả lời:
Có chứ, nhưng anh ta chưa lại, anh ta tên là Nan Đà, hiện
nay anh Nan Đà đang cùng với người anh trai tu hànhẤn
Độ
. Năm trăm thiên nữ chúng tôi đều thuộc về anh ta”.
Nan Đà nghe xong liền kéo tay Phật Thích Ca về, và ra sức
tu hành, hy vọng sau khi chết, sẽ được tái sanh lên cõi Trời.
Phật Thích Ca biết động cơ tu hành của Nan Đà không chân
chính
, bè n đưa Nan Đà xuống địa ngục, thăm viếng những
cảnh khổ sở bi thảm ở đấy. Khắp nơi, ở địa ngục
đều đầy rẫy các cảnh lửa thiêu đốt rét cắt da, dao
kiếm v.v… hành hạ con người. Đang đi, Nan Đà thấy một
vạc dầu, hai bên có hai con quỷ nhen đỏ lửa. Trong vạc,
dầu đang sôi sục, nhưng không thấy ai đến. Nan Đà hỏi:
“Các ông chờ đợi ai đó?” Một con quỷ trả lời: “Chúng
tôi đang đợi một người tên Nan mà anh ta hiện đang tu hành
cùng với một người anh trai ở Ấn Độ. Anh ta tu hành
để hưởng thụ các tiên nữ trên cõi trời. Vì vậy, sau
khi anh ta ở cõi trời 500 kiếp, sẽ phải đọa địa ngục
và rơi vào vạc dầu này”. Nan Đà nghe nói hoảng quá, từ
đó về sau chăm chỉ tu hành, cuối cùng chứng quả A La Hán.

Chuyện
Nan Đà cho chúng ta bài hai học:

Một,
đừng có vì tình dụctu hành. Người tu hành không nên
có mong cầu riêng gì.

Hai,
cõi Trời, Địa ngục, Tịnh Độ, cõi Người, tuy rằng chúng
ta
cảm giác là những không gian khác nhau, thế nhưng những
không gian đó thực rađồng thời cùng tồn tại đối với
một con người, tùy theo tâm trạng của người đó.

Thí
dụ
chúng ta đang sống ở không gian cõi người, nhưng tâm
chúng ta lại đầy lửa sân như ở địa ngụcliên tục
mãi như thế, thì sau khi chết, chúng ta ắt phải đọa địa
ngục
. Trái lại, sống ở cõi người mà tâm chúng ta thanh
tịnh
siêu thoát như ờ cõi Trời, thì sau khi chết, ất chúng
ta
sẽ tái sanh lên cõi Trời. Vì vậy cho nên sống ớ cõi
người
này, trong vấn đề tình dục chúng ta phải cảnh giác,
đừng để bị lửa địa ngục nung nấu như ở địa ngục,
chúng ta sẽ có tâm trạng địa ngụcsau khi chết sẽ bị
đọa địa ngục.

Các
vị Bồ Tát, dù sống ở không gian nào, cũng đều giữ vững
tâm niệm hóa độ chúng sanh, dù chúng sanh có duyên hay không
có duyên.


http://www.thuvienhoasen.org/tinhduclagoccuakho.htm