Vô Thường

0
34

VÔ THƯỜNG
HT. Thích Thiện Siêu

Người
đời khi đã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong
ngôi nhà Như Lai, vì đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất.
Chánh pháp Như Laihào quang chân lý, giúp cho chúng sanh phân
định được đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu
giác ngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho
chúng sanh phá tan màn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi
sai lầm đau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú có dạy: “Vì sợ
hãi
bất an mà đến quy y thần núi, quy y thần cây, quy y miếu
thờ thổ thần nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên
ổn
, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn
còn nguyên. Trái lại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, phát
trí tuệ chân chính, hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ,
biết khổ nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh đạo
diệt trừ khổ não; đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y
tối thượng. Ai quy y như vậy, giải thoát hết đau khổ”.


không nhận chân đúng lời Phật dạy, nên chúng sanh sống
trong cảnh vọng tưởng mà khởi tà kiến: vô thường chấp
là thường, vô ngã chấp là ngã, không thanh tịnh chấp là
thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc, nên bị luân hồi
đau khổ triền miên.

Tất
cả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển
không ngừng: chúng luôn luôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành,
trụ, hoại, không. Thế giới không một vật nào tồn tại
vĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều
vô thường, không những vô thường trong từng năm, tháng,
ngày, giờ mà còn vô thường trong từng sát-na sanh diệt.

Đối
với con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai
soi gương lại đã thấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi
láng, ngày mai đã thấy nếp nhăn nheo.


trụ
, sơn hà, đại địa, dù rất to lớn khiến chúng ta tưởng
lầm nó là kiên cố, nhưng thật ra nó cũng chịu sự biến
hoại
vô thường không kém. Hòn núi kia khi chúng ta chưa sanh
nó đã có, đến khi chúng ta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng
ta
tưởng hòn núi đó là thường; cho đến của cải vật
chất
, nhà cửa chúng ta cũng tưởng lầm như thế. Vì tưởng
lầm nên chúng ta quay cuồng trong vòng điên đảo, đem cái
tâm tham, sân, si để giành giựt lấy những gì chúng ta cho
là quý, là thường, là chân thật, nên mới gây ra biết bao
đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúc còn giành giựt nhau từng
đồng bạc, từng chút địa vị, từng lời ăn tiếng nói,
từng bước đi, từng cử chỉ… Đến như cái thân của chúng
ta
do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, do năm
uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu tạo nên, từ khi
cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, không biết
bao nhiêu lần biến chuyển đổi thay cho đến các tế bào
trong cơ thể chúng ta cũng thay đổi trong từng giờ, từng
khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thân
thể
của mọi người đều vô thường như thế – Đôi lúc
chúng ta cũng biết như thế, nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong
thân của chúng ta tồn tại mãi mãi, tại vì lòng tham, chấp
ngã
, nên chúng ta thấy “ta” là quý hơn tất cả mọi người,
chỉ có “ta” mới đáng được trọng vọng, khen ngợi, còn
người khác thì không nên trọng vọng, khen ngợi. Chính là
vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganh tỵ, tham lam của chúng ta
ra.

Vả
lại trong ta có những lúc tham, lúc giận, lúc si, nhưng cũng
có những lúc từ bi, hỷ xả, tâm muốn bố thí giúp ích mọi
người
. Vậy nếu nói lúc tham là ta và lúc giận, lúc si, lúc
bố thí, lúc từ bi, hỷ xả cũng là ta; thế thì, chính trong
một bản thân ta hóa ra có không biết bao nhiêu cái ta. Thử
hỏi trong những cái ta đó cái nào đích thực là ta? Khi ta
tham lam thì cái tham đó thật là ta; khi ta giận, cái giận
đó thật là ta, hay khi ta kiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn,
tật đố đó là ta? Nếu nói tham là ta thì ta sẽ là con người
tham mãi không bao giờ thay đổi được! Nếu nói kiêu mạn,
tật đố là ta, thì kiêu mạn tật đố không bao giờ thay
đổi được! Nhưng không, dù có kiêu mạn, tật đố nhưng
khi biết tu hành, phá trừ kiêu mạn, sống một cách khiêm
tốn, thì có thể thay đổi được. Dù tham lam nhưng nếu hiểu
được đạo lý thì cũng có thể chuyển đổi được lòng
tham lam ra lòng bố thí.


ràng
, tâm của chúng ta luôn luôn thay đổi, thân thể của
chúng ta cũng thay đổi không ngừng, không có lúc nào thật
là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tự nghĩ ta đây là ta, thì
lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi. Bởi vì trong lúc ta nói
ta đây, thì chính ảnh tượng mà ta tưởng là ta đó cũng
đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta giờ này không còn như giờ
phút trước. Cho nên, vừa mới mở miệng nhắc đến cái ta
thì cái ta đó đã bay đi mất. Thế mà vì không hiểu, cho
nên cứ đinh ninh rằng: “Ta đây, ta quý hơn tất cả, muốn
được tất cả mọi người tôn trọng, khen ngợi, và tuyệt
đối
không ai được chê ta hết. Nhưng ngược lại ta cũng
không muốn tôn trọng và khen ngợi ai cả”. Cái ta nó làm cho
con người điên đảo, hẹp hòi như vậy đó.

Cho
nên, chúng sanh đau khổ là vì vô ngã mà chấp là ngã, không
ta mà chấp thật là ta. Ai biết nhìn kỹ thân thể của mình,
qua pháp môn “Bất tịnh quán” như đức Phật đã dạy thì
sẽ thấy toàn thân chất chứa những đồ bất tịnh, nếu
bỏ lớp da ngoài thì ai cũng dơ bẩn như ai. Cái bất tịnh
ấy đã có từ trong bào thai, và khi lọt lòng mẹ cũng đã
bất tịnh rồi. Dù được trang điểm bao nhiêu cũng chỉ là
cái thân bất tịnh, cho đến khi nhắm mắt tắt thở, nó cũng
bất tịnh. Đối với cái thân bất tịnh này rõ ràng như
vậy mà chúng ta không nhận thấy; ngược lại còn chấp cái
thân này là tịnh, nên nâng niu, chiều chuộng, trau chuốt
quá đáng. Vì mù quáng đối với thân vô thường, lại cho
là thường nên con người luôn luôn đau khổ vì nó.

Ngày
xưa
có nàng Liên Hoa Sắc, khi nghe đức Phật dạy về đạo
vô thường, rằng thân thể bất tịnh, chúng sanh bất tịnh,
hữu tình bất tịnh, thì cô ta liền phát tâm muốn đi tu.
Nhưng trên bước đường đi tu ngang qua một dòng sông, cô
xuống sông rửa mặt, nhìn thấy bóng mình dưới nước
gương mặt quá đẹp, cô nghĩ thầm: “Mình đẹp như thế này
mà đi tu thì uổng quá!” Cô bèn quay trở lại. Bạn bè gặp
trở về bèn hỏi: “Tại sao trước kia chị phát tâm dõng
mãnh, muốn đến đức Phật để cầu xin xuất gia, tu hành,
bây giờ chị lại thối chí trở lui là thế nào?” Cô ta trả
lời
rằng: “Ôi! Tôi đẹp quá như thế này mà đi tu làm gì
cho uổng!” Họ hỏi: “Vậy chị đẹp như thế nào?” Cô ta trả
lời
: “Tôi soi mặt dưới nước thấy cái bóng của tôi phản
chiếu
dưới đó, hết sức là đẹp”.

Qua
câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Cái đẹp của cô ta
chỉ là cái đẹp phản chiếu lại lòng tham đắm xác thân
chứ đối với người khác chưa chắc đã đẹp, và đôi với
loài cá dưới nước khi thấy bóng cô ta thì phải chạy trốn
xa. Cô ta thấy cái bóng mình dưới nước cho là đẹp, vì
nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờ nó đang xấu, đang
hủy hoại từ từ mà cô ta không biết không hay!

Cho
nên trong kinh Xà Dụ, đức Phật dạy:

“Này
các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường? Bạch Thế Tôn,
vô thường. Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Bạch Thế
Tôn
, khổ… Do vậy này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của
các ngươi, hãy từ bỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc
lâu dài cho các ngươi. Trong bốn sự thậtđức Phật dạy,
sự thật đầu tiên là khổ (dukkha). Ngài nói cuộc đời
có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc không thoát
ly
sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biết bao
nhiêu cái khổ trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ.
Đó là cái khổ thường tình ai cũng nhận thấy, cái khổ
tự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không ai
tránh khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã không
cất ba tiếng khóc oa oa oa khi mới lọt lòng. Nếu một người
bịnh không khổ thì họ đã không rên xiết. Người già không
khổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một người
chết không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanh
khổ
, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là một sự thật hiển
nhiên
đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đó
còn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, những
người mình thích, những đồ vật mình ham muốn tưởng rằng
đó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền với
mình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vì
luật vô thường, những thứ đó nó rời khỏi tầm tay, không
cách gì cầm giữ lại được. Đó chính là ái biệt ly khổ.

Đối
với những người, những vật mình ghét, muốn tránh cho khuất
mắt mà không thể tránh được; mình muốn lờ đi nhưng nó
cứ hiện ra trước mặt. Trên một con đường, ai cũng muốn
đi trên con đường sạch sẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai
muốn đi trên con đường lầy lội, đầy gai góc hiểm độc
ấy, muốn tránh nhưng bước đâu vướng đó, muốn né nhưng
đi đâu vấp đó. Đối với sự vật bên ngoài đã vậy, còn
đối với người xung quanh, có người ta ưa thích, nhưng cũng
có người ta ghét, ta không ưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng
ở giữa hai cái ưa và không ưa đó cũng tạo nên một cảnh
ghét mà phải gặp là khổ, cho nên tục ngữ ta có câu: “Ghét
của nào trời trao của ấy”. Bên này oán bên kia và bên kia
oán bên này. Một khi đã oán nhau như vậy thì vũ trụ bao
la
trở thành thu hẹp lại một góc. Gặp một người oán ghét
ta muốn tránh, nhưng tránh hoài đến nỗi hết muốn gặp mà
cũng không sao tránh được. Vũ trụ bao la trong giờ phút này
trở nên chật hẹp đến nỗi ta tưởng nó không còn một
chỗ an toàn cho ta dung thân. Đó là cảnh oán tắng hội khổ.
Cảnh này nếu nằm trong gia đình, trong thân tộc, trong bản
thân
của mỗi người thì lại càng khổ hơn nữa.

Chúng
sanh
luôn luôn nuôi dưỡng lòng tham muốn và mong cầu, đối
với cuộc đời này họ chưa một lần biết đủ, cảm thấy
mình như một người thiếu thốn, họ tìm đủ mọi cách để
ôm trọn thế gian này. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người
thật ngắn ngủi, một trăm năm không đủ bề dày thời gian
để làm thỏa mãn lòng tham của họ, vì vậy họ chịu khổ
đau suốt đờiham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao
nhiêu, gọi là cầu bất đắc khổ.

Dẫu
có người cho rằng đời còn có nhiều thú vui chứ đâu phải
khổ hết. Coi xi-nê, coi hát, bài bạc, rượu chè cũng vui,
trúng số độc đắc hay làm quan cũng vui. Đức Phật không
phủ nhận điều đó, nhưng Ngài nói: Cái vui đó là cái vui
mong manh trong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minh nghiệp
chướng
đưa đến khổ đau càng sâu dày thêm. Cho nên có một
nhà thơ Việt Nam viết:

Bể
khổ mênh mông nước ngập trời


Khách
trần
chèo một chiếc thuyền chơi,


Thuyền
ai ngược gió ai xuôi gió,


Ngẫm
lại cùng trong bể khổ thôi”.

Ngược
gió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi,
không thể vượt lên trên biển được. Cho nên cái vui của
con người trong cảnh trầm luân này là cái vui trong đau khổ
của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, đức
Phật
nói đời là đau khổ, mặc dù chúng sanh cho đời là
vui, rồi say đắm theo đời, không giờ phút nào rời khỏi,
cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắt thở, bấy
giờ mới hoảng hốt, khổ đau!

Nếu
biết đem toàn tâm lực an trú trong Chánh pháp thì sẽ nhận
rõ lời đó của đức Phật: tất cả sự vật là vô thường,
chúng sanhvô ngã, thân thểbất tịnh, mọi sự lãnh
thọ
đều là khổ: dù là thọ khổ hay thọ vui, cũng đều
trong vòng tương đối. Đã ở trong vòng tương đối thì
sanh diệt, có sanh diệt tất nhiên lòng chúng ta không thỏa
mãn
, nên sanh ra đau khổ. Đức Phậtđại sự nhân duyên
đó mà ra đời, để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh. Mục
đích
tu hành của người tu Phật là để chuyển nghiệp. Ngài
dạy rằng: “Nghiệp dắt thế gian tới, nghiệp kéo thế gian
đi, thế gian chuyển theo nghiệp, như bánh xe lăn theo chân con
vật kéo xe”. Con vật kéo xe đi vào trong con đường tối tăm
mù mịt thì bánh xe cũng phải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp
cũng tương tự như thế. Mỗi người đều có những nghiệp
riêng, nghiệp tốt thì làm cho con người tốt, nghiệp xấu
thì làm cho con người xấu, nghiệp cao thượng thì trở thành
con người cao thượng, và nghiệp thấp hèn thì trở thành
con người thấp hèn. Tất cả đều do nghiệp. Nghiệp là bào
thai
, nghiệp là sở hữu, cho nên khi sanh ra, khi chết đi, ta
cũng chỉ một mình đi theo nghiệp chớ không có ai đi theo
ta hết. Không ai thay thế ta để đi theo trong khi ta sanh, già,
bịnh, chết với cái nghiệp của ta mà thôi. Cái nghiệp luôn
luôn đi theo ta như bóng theo hình. Những người tạo nghiệp
lành
thì có những người bạn lành cùng đi theo. Những người
tạo nghiệp dữ thì có những kẻ oan gia thù hận đi theo.
Người tạo nghiệp lành thì như mang bình cam lồ đi đây đi
đó. Người tạo nghiệp ác thì như mang một bồ rắn độc
bên mình, luôn luôn nơm nớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật
dạy
, con người là do nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy:
“Con thiên nga chỉ bay được giữa hư không, người có thần
thông
chỉ bay được khỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí,
đại hạnh dứt sạch nghiệp luân hồi mới bay được khỏi
thế gian này” (Pháp Cú 175).

Bay
khỏi thế gian này tức giải thoát, tự tại. Nên con người
tu hành là để chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp xấu thành tốt,
vô minh ra giác ngộ, trầm luân ra giải thoát. Tóm lại, chuyển
cái nghiệp của chúng sanh ra cái nghiệp của chư Phật, Thánh,
Hiền. Khi chuyển nghiệp được rồi thì chính cái nghiệp
đó nó trở thành một tòa lâu đài để nâng đỡ chúng sanh,
giúp cho chúng sanh được an vui, giải thoát

CHẾT
LÀ MỘT SỰ NỐI TIẾP CỦA LUẬT NHÂN QUẢ VÔ THƯỜNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, bên kia cõi chết, tử thần đã cướp đi
người bạn đời của con, hiện nay đời sống bỗng trở
thành
vô vị, cuộc đời đầy tẻ nhạt, chán chường, hạnh
phúc
đã mất đi không bao giờ trở lại. Người ấy
đã đi xa đi mất, số phận duyên nợ chỉ có thế thôi. Nhưng có lúc con cầu mong cho họ được bình an, nhưng con lại
thấy có cái gì không ổn đối với họ.

Thân
tứ đại
này do đất, nước, gió, lửa hợp lại rồi tan
đi; đó là số phận phải không thưa Thầy? Xin Thầy
chỉ cho con biết.

Đáp: Không có sự sống sau khi chết mà chỉ có sự nối tiếp của
luật nhân quả. Với trí hữu hạn của con người không
thể hiểu thấu được sự tiếp nối của định luật nhân
quả
luân hồi, nên thấy có sanh và có tử. Sự thực
sanh tử là một diễn biến của luật nhân quả, xác định
sự vô thường của các pháp trong thế gian này.

Các
pháp trong thế gian này đều chịu luật vô thường, sanh diệt
của nhân quả. Vì thế không có pháp nào trong thế gian
này ra khỏi sự chi phối của luật nhân quả, nên các pháp
thường
sanh diệt theo chu kỳ tuần tự của định luật
mỗi pháp phải chịu sự biến dịch.

Người
bạn đời của con gặp nhau trong duyên nhân quả để trả
vay, vay trả. Khi vay trả xong thì phải theo định luật
nhân quả tiếp tục trả vay sự việc khác. Con không
thấu hiểu điều đó nên tạo thêm nhân quả thương nhớ,
ràng rịt và trói buộc, không phải trói buộc với nhân quả
của người đã mất mà trói buộc với nhân quả tương ứng.

Lòng
thương nhớ của con sẽ gặp nhân quả tương ứng với lòng
thương nhớ đó để mà trả vay, vay trả. Còn nhân quả kia
(người bạn đời của con) thì đã trả vay xong thì không
còn tương ứng với con nữa.

Cho
nên con quá vô minhđiên đảo đã thương nhớ một nhân
quả
, để rồi phải gặt lấy một nhân quả khác đang trói
buộc
(kiết sử) để kiếp sống đời đời chẳng bao giờ
thoát ra khỏi biển khổ sanh tử luân hồi. Con muốn tu
hành
giải thoát thì hãy đoạn dứt sợi dây ái kiết sử
này. Sợi dây ái kiết sử này là con đường tiếp tục
sanh tử luân hồi đầy đau khổ mãi mãi.

Tình
cảm của con người là một sợi dây rất khó bứt, nếu không
thấu suốt được luật nhân quả thì không bao giờ đoạn
sạch được ái kiết sử. Người tu theo Đạo Phật thấy
ái kiết sử như là một rắn độc, nó từng đem đến nọc
độc khổ đau cho loài người. Con là một con người
đang bị nọc độc của ái kiết sử.

Một
người vợ khóc chồng, một người chồng thương vợ là ái
kiết sử; một người mẹ thương con, một người con thương
mẹ là ái kiết sử. Nói chung tất cả các tình cảm
thương
yêu nhau là ái kiết sử. Người nào đã bi lụy
vì tình cảm yêu thương ấy, trong Đạo Phật gọi là đã
bị nọc độc rắn nhân quả cắn. Kẻ nào đoạn dứt
được nọc độc này là kẻ đó làm chủ rắn độc nhân
quả
. Nếu không làm chủ được nhân quả thì đời đời
kiếp kiếp ta sẽ bị nọc độc rắn nhân quả làm cho ta sống
trong cảnh khổ đau triền miên, bất tận, không những trong
một đời mà nhiều đời nhiều kiếp.

Con
cần phải thấu suốt luật nhân quả để không còn buồn
khổ vô ích. Trong luật nhân quả khi một người mất
đi thì chỉ còn nghiệp lực của nhân quả tiếp tục tái
sanh
luân hồi, và người bạn đời của con đâu còn cái gì
gọi là người bạn của con. Thế nên, sự thương nhớ
của con chỉ là nhớ lại một hình bóng ảo tưởng của con
trong ký ức mà thôi.

Cũng
như hiện giờ trong kiếp sống này con có bao giờ nghĩ đến
thương người bạn đời trong kiếp quá khứ của mình chăng? Chắc điều đó không bao giờ có phải không con, cũng như
người bạn đời của con đã chết thì trong kiếp khác họ
đâu có còn nhân quả để mà nhớ đến con nữa. Trong
họ chỉ biết kiếp hiện tại của họ mà thôi. Cũng
như con bây giờ cũng vậy chỉ có vô minh điên dại đi khóc
nhân quả.

Nhân
quả
nghĩa lý gì đâu, nó là những hành động của con
rắn độc ái kiết sử, nó đã làm khổ loài người trên
hành tinh này, khiến cho nước mắt của con người còn nhiều
hơn nước biển.

Trên
hành tinh này duy nhất chỉ có Đạo Phật mới dạy con người
về lý nhân quả, không có một giáo phái nào mà dạy chúng
ta
làm chủ như vậy được. Con đủ phước duyên tu tập,
hãy dứt sạch ái kiết sử đó đi, đừng thương vay khóc
mướn nhân quả, chẳng có ích gì mà tự con đã làm khổ
lấy mình.