Tôn Giả Thi Bà La

0
31

TÔN GIẢ

THI BÀ LA

 

1). ĐỨA BÉ KỲ LẠ:

 Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ trong
thành Xá Vệ có một Trưởng Giả tên Nguyệt Quang, lập gia đình đã lâu chưa có
con, nên thường cầu khẩn trời đất thánh thần, mong có con nối dõi. Một thời
gian
sau, người vợ có thai, sau hơn chín tháng sinh được con trai đẹp đẽ như
màu hoa đào. Nhưng khi đang sanh, hai tay đứa bé ôm hạt châu Ma ni quý giá mà
ra, vừa sinh ra hai tay ôm hạt châu liền nói kệ:

Nhà này nếu có tiền,

Báu vật và thức ăn,

Nay tôi muốn bố thí,

Cho người nghèo thiếu
thốn
.

Nếu nhà không tiền
của
,

Không vật chẳng thức
ăn
,

Nay có châu vô giá,

Dùng để bố thí người.

 Người mẹ nghe nói ngạc nhiên lạ lùng, còn mọi người chung quanh thấy sự
lạ chưa từng có đều sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Làm sao sanh ra Ma Quỷ! Vừa sinh
ra đã biết nói! Người mẹ bình tĩnh liền nói kệ hỏi:

Là Trời hay Càn Thát?

Ma Quỷ hay La Sát?

Là ai tên họ gì?

Nay ta muốn được
biết.

 Đứa bé liền đáp:

Không Trời chẳng Càn
Thát
,

Không Quỷ cũng chẳng
La,

Là con của cha mẹ,

Là người chớ nghi
ngờ
.

 Phu nhân nghe những lời ấy thì vui mừng, cho rằng: con mình là Thần
đồng, liền kêu gọi những người vừa bỏ chạy trở lại, rồi phu nhân cho mời Trưởng
giả
đến, và đem việc ấy nói với Trưởng giả.

 

LỜI BÀN:

 Chuyện một đứa bé vừa sinh ra đã ôm sẵn trong tay viên ngọc châu Ma Ni
mà ra, lại còn phát nói lên như người lớn! thật là kỳ lạ chưa từng có trên thế
giạn; thảo nào những người xung quanh thấy thế tưởng Ma Quỷ nên chạy tán loạn
là phải, không trách họ được. Về vấn đề này, chúng ta chỉ thấy trường hợp khi
đức Phật khi sinh ra tại vườn Lâm Tì Ni, có một số sách nói rằng khi vừa sinh
ra, Ngài liền bưóc đi bảy bước trên hoa sen vừa mọc, tay chi trời tay chỉ đất
và nói “Trên trời dưới đất, chỉ Ta là qúy” (Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn
).

 Chắc rằng nhiều người không đồng ý, do đó nhiều sách không đề cập tới vì
thấy trái với thông thường, nhưng qua Kinh nói đã nhiều lần đức Phật hiện thần
thông
, ánh sáng phát ra từ thân thể, hoa sen tự nhiên mọc lên, và Ngài bước lên
ngồi trên đài sen trước mặt tứ chúng. Như thế, chúng ta có tin được không, vì
những sự biến hóa ấy đều trái với khoa học, trái với sự thông thường ở đời. Vả
lại những gì viết ra trong Kinh đều do 500 vị Thánh Tăng cùng duyệt xét hư thực
trước khi kết tập, thì không thể sai được.

Không như Kinh sách của các Tôn giáo khác do
một hay hai người tự suy nghĩ viết ra nên có thể nhầm lẫn.

 Chúng ta cần nên biết khi Bồ Tát từ cung Trời Đâu Suất giáng sinh vào
thai mẹ, Ngài biết vào thai mẹ; khi ở trong bụng mẹ, Ngài biết đang ở trong
bụng me; khi ra khỏi bụng mẹ, Ngài biết ra khỏi bụng mẹ. Lại khi Ngài sinh ra,
Vua Trời Đế Thích cõi Đạo Lợi là cõi dục giới thấp nhất và các vị Trời cùng
Thiên Thần hiện diện ngay, hóa hiện hoa sen cùng nâng dìu cung phụng Bồ Tát. Nên
vừa sinh ra đã đi bảy bước trên hoa sen vừa mọc, tay chỉ lên, tay chỉ xuống,
vừa đi vừa nói “Trên trời dưới đất, chỉ Ta là quý” việc này không phải không
thể xảy ra.

 Chúng ta hiểu câu nói “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” như thế
nào?, nếu chúng ta hiểu câu ấy là “Từ các loài Trời ở trên cho đến loài Người
dưới chỉ có mình ta là tôn quý nhất”, đây là lời giải thích của người bình
thường
thôi, không đúng ý Bồ Tát. Bồ tát muốn nói rằng “Trên trời dưới đất, cái
Tánh, Phật Tính của mỗi người là quý nhất”, chứ chẳng phải cái thân xác phàm
đâu; mỗi người đều có cái “Tánh” quý giá ấy, nó là hòn ngọc độc nhất vô nhị của
mỗi chúng sinh.

 Như thế thì đứa bé Thi Bà La kia đã trải qua những tiền kiếp như thế
nào, mới có được khi sinh ra đời ấy đã cầm viên ngọc châu Ma Ni, lại nói ngay
được nên cũng có thể hiểu được, nhưng phải công nhận rằng việc như thế thật là
kỳ đặc hiếm có trên thế gian. Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp của
câu chuyện xem sự việc như thế nào.

 

2). BẬC TRÍ VÀ KẺ NGU:

 Sau khi nghe người vợ nói sự việc, Trưởng giả liền nghĩ: “Đây là duyên
gì?” Nay ta hãy đem duyên này hỏi Ni Kiền Tử (ngoại đạo tu khổ hạnh), rồi ông
cho bồng đứa nhỏ đi hỏi Ni Kiền Tử, Ông trình bày tất cả sự việc xảy ra, Ni
Kiền Tử
nghe xong bảo:

– Đứa bé này bạc phước, vô phúc, vô ích, nên
đem giết đi, nếu để nó sống nhà cửa của Ông sẽ bị hao tài tốn của vì nó, và
cuối cùng cả nhà sẽ bị chết hết.

 Trưởng giả nghe mấy lời ấy suy nghĩ: “Ta từ trước đến giờ không có con
nên cầu khẩn trời đất thánh thần biết bao năm nay mới có đứa con này, ta chẳng
thể giết nó được. Ta sẽ đi hỏi Sa Môn, Bà La Môn xem sự thể thế nào?”

 Khi ấy, Sa Môn Cù Đàm thành Phật chưa được lâu, mọi người gọi Ngài là
Đại Sa Môn; Trưởng giả Nguyệt Quang liền nghĩ: “Ta có thể đem việc này hỏi Đại
Sa Môn” Rồi ông cho bế đứa nhỏ đến chỗ đức Phật. Đang đi giữa đường, ông lại
nghĩ: “Nay có Trưởng lão Phạm Chí (người tu theo ngoại đạo) lớn tuổi thông minh
trí tuệ, được mọi người cung kính nể trọng, ta nên đến chỗ Phạm Chí hỏi hơn là
Sa Môn Cù Đàm còn trẻ, học đạo chưa được bao lâu, há có thể biết việc này sao?
E rằng không giải quyết được mối nghi của ta, nay ta nên đến hỏi Phạm Chí”,
nghĩ rồi ông bèn quay trở lại; lúc ấy có một Thiên thần trước kia khi còn sống
thế gian là bạn với Trưởng giả, biết tâm niệm của Trưởng giả, nên bèn ở trên
không nói vọng xuống:

– Này Nguyệt Quang, Trưởng giả nên biết Như
Lai
ra đời rất khó gặp, Sa Môn Cù Đàm chính là Như Lai như nước cam lộ đúng
thời mới có; sao Ông lại quay về, hãy tiến lên sẽ được lợi ích lớn, Ông nên
biết có bốn việc nhỏ nhưng chớ coi thường.

 Rồi Thiên thần nói kệ:

Quốc Vương tuy còn
nhỏ,

Bị hại do khinh Vua,

Lửa nhỏ tuy chưa
mạnh,

Thiêu rụi cả núi
rừng
.

Rồng thần tuy hiện
nhỏ,

Giáng mưa tùy lúc
làm,

Người học tuổi tuy
nhỏ,

Độ người thật vô
lường.

 Trưởng giả nghe xong, tâm ý mừng rỡ, liền quay lại tiến bước đến chỗ
Phật. Trưởng giả cúi lạy rồi đem nhân duyên thưa đầy đủ với Phật. Đức Phật nghe
xong bảo Trưởng giả:

– Đứa bé này phúc rất lớn. Đứa bé sau này lớn
lên sẽ đem 500 đồ chúng đến chỗ Ta xuất gia học đạo, đắc quả A La Hán. Trong
hàng Thanh Văn của Ta, đứa bé này là người phước đức bậc nhất không ai bì kịp.

 Trưởng giả nghe đức Phật nói xong, vô cùng mừng rỡ, rồi thưa:

– Đúng như Ngài nói, chẳng phải như Ni Kiền Tử.

 Rồi Trưởng giả lại bạch:

– Cúi xin Thế Tôn và chúng Tỳ Kheo thương xót
đứa bé này, nhận lời thỉnh cúng dàng bữa ăn ngày mai của con.

 Đức Phật im lặng nhận lời, Trưởng giả biết đức Phật đã nhận lời, ông
liền từ chỗ ngồi đứng dậy cúi lễ rồi lui về nhà, cho người sửa soạn thức ăn
thức uống. Tới nửa buổi hôm sau, ông trở lại thỉnh mời đức Phật cùng chư Tăng
tới nhà thụ trai; sau khi thọ trai xong, Trưởng giả vái lễ trước Phật rồi thưa:

– Con đem hết ruộng vườn nhà cửa tài sản cho
hết đứa con, cúi xin Thế Tôn đặt tên cho nó.

 Đức Phật bảo:

– Lúc đứa bé mới sinh ra, mọi người đều bỏ
chạy, nói nó là Quỷ Thi Bà La. Nay Ta đặt tên nó là Thi Bà La.

 Đức Phật thuyết pháp cho vợ chồng Trưởng giảquyến thuộc, nghe xong
đều xin được quy y Phật Pháp Tăng và thụ ngũ giới; xong, đức Phậtđại chúng
Tỳ Kheo
ra về.

 

LỜI BÀN:

 Đoạn Kinh trên cho thấy người tu theo ngoại đạo khổ hạnh không thể đạt
đạo, không có trí huệ, nên khi gặp người khác hỏi những vấn đề khó khăn thì
tịt
nên chỉ trả lời theo lối nói mò, nói hiêu đoán vượn. Ni Kiền Tử nghe nói
đứa bé khi sinh ra có hạt bảo châu, lại biết nói và đòi bố thí, thì ngờ rằng đó
ma quỷ độn vào thai mà sanh ra. Nên đã tiên đoán đứa nhỏ sau này sẽ phá hoại
hết tiền của tài sản, hại chết hết cả gia đình, và cuối cùng Ni Kiền Tử khuyên
nên giết đứa nhỏ để trừ mọi hậu hoạn cho gia đinh, đây là lời nói của người si
không biết sự thật nên đã nói bậy vậy.

 Nếu Trưởng giả Nguyệt Quang cũng là người ngu si không biết suy nghĩ,
nghe theo lời Ni Kiền Tử gây nghiệp ác có phải là đã hại đứa nhỏ rồi không!?

 May thay! đứa bé có phúc lớn, nên đã khiến Trưởng giả không muốn hại đứa
con, và khởi nghĩ đến việc đi hỏi đức Phật.

 Một chi tiết nhỏ nhưng không kém phần quan trọng, đó là lúc đang trên
đường đi đến chỗ Phật, Trưởng giả chợt nghĩ tới tuổi trẻ học đạo chưa được bao
lâu của Sa Môn Cù Đàm, nên nghĩ rằng như thế chắc không biết để giải quyết được
vấn đề, nên Trưởng giả không tiếp tục đi nữa mà quay lại.

 Lúc ấy vị Thiên Thần kia biết được ý nghĩ của Trưởng giả, bèn khuyến cáo
và bằng bài kệ rằng không nên coi thường Vua còn nhỏ, đốm lửa nhỏ, Rồng hiện
nhỏ, người đạo tuổi nhỏ, vì khinh Vua nhỏ mà bị chết, khinh đốm lửa nhỏ mà cả
núi rừng tiêu thành tro, khinh rồng hiện nhỏ nên bị nước tràn ngập, khinh người
đạo tuổi nhỏ nên không thấy sự độ vô lường; khi nghe những lời ấy, Trưởng giả
đã như tỉnh ngộ, liền quay lại tiến đến chỗ Phật.

 Khi gặp, đức Phật dùng trí huệ nói chứ không phải là đoán mò nói càn như
ngoại đạo, Ngài nói những lời đẹp lòng hợp ý Trưởng giả, khiến ông vô cùng phấn
khởi liền thỉnh đức Phật và chúng Tỳ Kheo tới nhà thọ trai và đặt tên cho con
mình. Mặc dù cái tên tuy qủy mị, nhưng với lòng tin Phật nên cái tên quỷ mị ấy
rất đẹp và có ý nghĩachúng ta sẽ thấy đức Phật đề cập đến ở cuối bài kinh
này. Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh kế tiếp.

 

3). PHÚC ĐỨC ĐỆ NHẤT:

 Bấy giờ, Trưởng giả Nguyệt Quang tìm rất nhiều (500) thiếu niên (đồng
tử
) nghèo cùng lứa tuổi hay ít tuổi hơn để hầu hạ Thi Bà La từ khi còn nhỏ cho
tới trưởng thành. Tới năm 20 tuổi, Thi Bà La thưa với cha mẹ:

– Cúi mong cha mẹ cho con được theo đức Thế
Tôn
học đạo.

 Thi Bà La liền được song thân chấp thuận, vì ông bà Trưởng giả đã biết
việc đức Phật đã thụ ký từ 20 năm về trước rồi, Thi Bà La đem hết các thanh
niên đến chỗ đức Phật và thưa:

– Cúi xin đức Thế Tôn chấp nhận cho con được
nhập đạo.

 Đức Phật liền thu nhận Thi Bà La cho làm Sa Môn, được vài ngày Tỳ Kheo
Thi Bà La liền thành A La Hán, đủ cả lục thông tám giải thoát. Khi ấy 500 thanh
niên đồng loạt đến trước đức Phật xin được làm Sa Môn, tất cả đều được chấp
nhận
, và chẳng bao lâu, tất cả đều thành A La Hán.

 Khi ấy Tôn Giả Thi Bà La cùng 500 Tỳ Kheo trở về làng cũ tại nước Xá Vệ,
mọi người đều kính ngưỡng cúng dàng đầy đủ. Ở được ít ngày, Tôn Giả nghĩ: “Nay
ở làng mình thật ồn náo phiền toái, ta nên đi du hóa trong nhân gian” Sau khi
khất thực tại thành Xá Vệ xong, Tôn giả rời khỏi tịnh xá Kỳ Hoàn cùng với 500
Tỳ Kheo du hóa trong nhân gian. Đi tới đâu cũng được cúng dường đầy đủ từ thức
ăn
đến áo mặc, thuốc men v.v… vì có các vị Trời báo trước cho thôn xóm rằng:
“Nay có Tôn giả Thi Ba La đã đắc A La Hánphúc đức hạng nhất cùng với 500 Tỳ
Kheo
đều là bậc Thánh du hóa trong nhân gian sắp đến, chư vị nên cúng dàng, nếu
bây giờ không làm, sau hối tiếc vô ích”. Vì vậy, Tôn giả đi tới đâu, nhân dân
đều biết trước và sửa soạn thức ăn sẵn sàng nên mọi thứ đầy đủ.

 Khi ấy Tôn giả lại nghĩ rằng: “Chán sự cúng dường nhiều quá, ta nên tìm
chỗ nào ở cho mọi người không biết chỗ ta”, rồi Tôn Giả vào sâu trong rừng núi.
Chư Thiên lại báo cho từng người trong thôn xóm biết chỗ: “Tôn giả Thi Bà La
đang ở núi này rừng kia, hãy đến cúng dàng, nếu không làm, sau này hối tiếc
ích”. Nhân dân nghe Trời bảo như thế, liền gánh đội thức ăn uống đến tận nơi
cúng dường và nói:

– Xin Ngài dừng lại vì chúng con.

 Tôn giả du hóa dần dần đến vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt nước
Ma Kiệt, cũng được nhân dân cúng dàng đầy đủ các thứ. Lúc ấy Tôn Giả nghĩ: “Ta
phải nhập hạ ở phía Tây núi Quảng Phổ để mọi người không thể đến”, rồi Tôn giả
dẫn các Tỳ Kheo đi. 

 Khi ấy Vua Trời Đế Thích biết được tâm ý Tôn Giả như thế, liền hóa hiện
cảnh Chùa, vườn cây hoa lá quả tốt tươi đầy đủ tại chỗ ấy, chung quanh lại có
hồ sen thơm trong mát. Thích Đề Hoàn Nhân (Vua Trời) lại hóa hiện đầy đủ tòa
ngồi, giường dây (giường để trong võng treo hai đầu), và dùng cam lộ của Trời
để dâng món ăn thức uống.

 Hết ba tháng nhập hạ, Tôn giả Thi Bà La lại dẫn 500 Tỳ Kheo đến thành
Vệ
để được gần gũi đức Phật. Khi ấy trời oi bức nóng nực, mọi người đều thấy
khó chịu vì nóng lại không có gió. Tôn giả nghĩ thầm: “Hôm nay nếu có mây mưa
thì hay biết mấy”, vừa nghĩ xong, trên không liền có đám mây lớn từ xa tới, rồi
mưa bụi làm mọi người mát dịu hẳn lại.

 Bấy giờ Tại thành Xá Vệ, Tôn giả Thi Bà La có người chú là Trưởng giả
rất giàu có, nhưng keo kiết không bao giờ chịu bố thí giúp ai, những người thân
tộc
bảo: “Sao không dùng của cải tạo dựng tương lai đời sau? Trưởng giả nghe
hiểu ra liền đem trăm nghìn vàng bạc tiền của bố thí cho các Phạm Chí, dị học
(người học, tu hành của ngoại đạo), Tôn giả nghe nói Chú mình làm như thế.

 Tôn giả Thi Bà La đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ lạy, xong đi nhiễu ba vòng
quanh Phật, rồi đi vào thành khất thực dần dần đến nhà Chú đứng lặng thinh.
Trưởng giả thấy cháu bảo:

– Mấy bữa rồi sao không đến, tôi đã đem vô số
vàng bạc tiền của cúng dàng hết rồi, nay có thể cho tấm vải.

 Tôn giả đáp:

– Nay tôi chẳng dùng vải làm gì, đến đây để
khất thực.

 Trưởng giả đáp:

– Tôi đã bố thí hết rồi, hôm nay không thể bố
thí
nữa.

 Tôn giả muốn độ cho Chú mình nên bay lên hư không, làm phép thần biến,
thân ra lửa, ra nước, đi đứng ngồi nằm trên không tùy ý. Trưởng giả thấy sự
biến hóa ấy liền nói:

– Thôi trở xuống đây ngồi, nay tôi sẽ thí cho
thức ăn.

 Tôn giả liền xuống ngồi, Trưởng giả liền đem thức ăn dở tệ ra. Tôn giả
vốn con nhà hào tộc tùy ý ăn uống, vì Trưởng giả nên nhận ăn thức ăn ấy, ăn
xong trở về. Đêm ấy có vị Trời ở trên không bảo Trưởng giả bằng kệ, sáng sớm
đến nhắc lại bài kệ ấy:

Thiện pháp thí rất
lớn,

Là cho Thi Bà La,

Vô dục đã giải thoát,

Ái đoạn đã vô nghi.

 Trưởng giả nghe vị Trời nói liền nghĩ: “Hôm trước ta đem vô số vàng bạc
cúng dường Phạm chí, dị học chẳng có cảm ứng, hôm qua ta lấy thức ăn dở tệ thí
cho Thi Bà Lacảm ứng đến thế, sáng ra, ta sẽ đem trăm nghìn vàng bạc tiền
của
dâng cho Thi Bà La mới được.

 Sáng ra, Trưởng giả liền kiểm điểm vàng bạc cho đủ số, liền đem đến tìm
gặp Thi Bà La. Sau khi chào hỏi, ông liền nói:

– Mong Thi Bà La nhận cho trăm nghìn vàng bạc
này.

 Tôn gia đáp:

– Mong cho Trưởng giả được phúc vô cùng,
trường thọ tự nhiên. Nhưng Thế Tôn không cho Tỳ Kheo nhận trăm nghìn vàng bạc.

 Trưởng giả liền đến chỗ đức Phật, cúi đầu lạy rồi thưa:

– Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho Tôn giả
Thi Bà La được nhận trăm nghìn vàng bạc để con được hưởng phước báu về sau.

 Đức Phật liền bảo một Tỳ Kheo đi mời Tôn giả Thi Bà La đến gặp Phật. Khi
Tôn giả đến cúi lễ xong, đức Phật bảo:

– Nay Thầy có thể nhận trăm nghìn vàng bạc
của Trưởng giả khiến Trưởng giả được phúc báu, đây là nghiệp duyên đời trước
nên được hưởng báo này.

 Tôn giả Thi Bà La đáp:

– Xin vâng, thưa Thế Tôn.

 Rồi Tôn giả bảo Trưởng giả:

– Ông hãy đem vàng bạc bố thí để trong phòng
tôi.

 Trưởng giảTôn giả đều cúi lễ đức Phật rồi cùng đến phòng của Tôn
giả
, sau khi Trưởng giả bố thí xong, Tôn giả Thi Bà La bảo các Tỳ Kheo:

– Vị nào có thiếu chi hãy đến phòng tôi mà
lấy, hãy bảo nhau đến mà lấy, không nên cầu chỗ khác.

 

LỜI BÀN:

 Trong đoạn Kinh trên, trước hết chúng ta cần
tìm hiểu về sự tu hành của Thi Bà La chỉ có vài ngày đã đắc A La Hán, thật là
dễ dàng quá, nếu không phải là do duyên đã có từ lâu đời rồi thì khó mà hiểu
nổi; khi đắc quả Thánh rồi, lại có đủ lục thông bát giải thoát.

Lục
thông

là sáu thần thông, chính ra nên nói là bảy thân thông, gồm Thần túc thông biến
hóa
, Thiên nhãn thông nhìn thấu suốt, Thiên nhĩ thông nghe thấu suốt, Tha tâm
thông
biết tâm niệm của người khác, Túc mệnh thông biết rõ các tiền kiếp sinh
tử luân hồi
của mình, Sinh tử thông biết rõ sinh tử luân hồi của chúng sanh, và
Lậu tận thông biết rõ sạch hết ô uế biết rõ ra khỏi sinh tử luân hồi.

Bát
giải thoát

tám giải thoát gồm:

1- Dứt hết chấp ngã, không còn chấp ta.

2- Dứt sạch sự dính mắc hình sắc đẹp xấu.

3- Thanh tịnh, cũng không chấp thanh tịnh.

4- Đạt hư khôngvô biên.

5- Đạt thức là vô biên.

6- Đạt tâm không có vật gì.

7- Đạt phi tưởng phi phi tưởng.

8- Đạt diệt thụ tưởng định (Diệt tận định).

 Đoạn Kinh trên cho thấy: Tôn Giả Thi Bà La đi đến đâu cũng được nhân dân
cúng dường quá đầy đủ đến nỗi Tôn giả cảm thấy mệt vì có quá nhiều sự cúng
dàng; sở dĩ như vậy vì các vị Trời đi cổ động tuyên truyền trước, mà lời nói
của Chư thiên lại được nhân dân tín trọng gấp trăm lần tuyền truyền của người.
Rồi chính Chư thiên cũng làm việc cúng dường
khi Tôn giả đến vùng xa xôi ngăn sông cách núi, chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn
kinh kế tiếp để biết việc này, tại sao Tôn giả được các vị Trời kính nể như
thế?

 

4. TIỀN KIẾP THI BÀ LA:

 Bấy giờ nhiều Tỳ Kheo thắc mắc về phước báu khác thường của Tôn giả Thi
Bà La, nên đến chỗ đức Phật lễ lạy rồi hỏi:

Tôn giả Thi Bà La xưa tạo phúc gì mà sinh
trong nhà Trưởng giả giàu sang, khi mới sinh hai tay ôm hòn châu ngọc Ma Ni
ra, vừa ra khỏi bụng mẹ liền biết nói. Lại đem 500 đồ chúng đến chỗ Thế Tôn xin
xuất gia học đạo, học đạo chưa được vài ngày đã đắc A La Hán có đủ lục thông
bát giải thoát; lại nữa, Tôn giả đi đâu cũng được cúng dường vô số kể, không ai
bì kịp như thế là nguyên do gì?

 Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

– Thời quá khứ thật lâu xa, cách nay 91 kiếp
về trước (khoảng 6.5 tỉ năm), có Phật hiệu Tỳ Bà Thi ra đời (khi loài người
sống 8 vạn tuổi), du hóa ở nước Bàn Đầu cùng đại chúng Tỳ Kheo . Lúc ấyPhạm
Chí
Da Nhã Đạt giàu có bậc nhất, Da Nhã Đạt đến chỗ Phật Tỳ Bà Thi được Phật
thuyết
pháp cho nghe được tâm hoan hỉ. Nghe xong ông thưa:

“- Cúi mong Ngài và chúng Tăng nhận lời thỉnh
đến nhà con trước buổi trưa ngày mai dùng cơm cúng dàng của con”

 Lúc ấy đức Phật Tỳ Bà Thi im lặng nhận lời, Phạm Chí biết Phật nhận lời,
liền đứng lên vái lễ, đi quanh Phật ba vòng rồi ra về trang trí sắp xếp sửa
soạn thức ăn uống. Vào khoảng nửa đêm, Phạm Chí Nghĩ: “Các thứ đã sửa soạn
xong, chỉ thiếu tô lạc nữa thôi, sáng sớm mai ta phải đến cửa thành xem có ai
bán tô lạc thì phải mua bằng bất cứ giá nào”.

 Sáng sớm, Phạm Chí đến cửa thành gặp người chăn trâu tên Thi Bà La muốn
đem tô lạc đến chỗ tế tự, Phạm Chí thấy người ấy có tô lạc, liền hỏi:

“- Anh bán tô lạc này, tôi sẽ mua hết với giá
cao”.

 Người
chăn trâu nói:

“- Tô lạc này, tôi muốn để cúng tế”.

 Phạm Chí Da Nhã Đạt bảo:

“- Nay anh cúng Trời để cầu việc gì?, nếu bán
cho ta, ta sẽ trả giá xứng đáng”

 Người chăn trâu Thi Bà La hỏi:

“- Ông muốn mua tô lạc để làm gì?”

 Phạm Chí đáp:

“- Hôm nay tôi thỉnh đức Như Lai Tỳ Bà Thi
chư Tăng đến nhà thụ trai cúng dàng, các thức ăn uống đều đầy đủ, chỉ thiếu có
món tô lạc này nữa thôi”.

 Thi Bà La hỏi:

“- Như Lai Tỳ Bà Thi là người như thế nào?”

 Phạm Chí đáp:

“- Như Lai, không ai sánh được, trên trời
tất cả nhân gian không ai bì kịp, Ngài giảng nói rất vi diệu, Ngài có các đệ tử
cũng rất giỏi v.v…”

 Phạm Chí tán thán công đức Như Lai, người chăn trâu Thi Bà La nghe xong,
tâm ý vui mừng, liền nói với Phạm Chí:

“- Nay tôi muốn đích thân đem tô lạc này đến
cúng dường Như Lai, chứ không cúng tế Thiên Thần nữa”.

 Phạm Chí Da Nhã Đạt dẫn người chăn trâu Thi Bà La về nhà, rồi tự đến chỗ
Phật thỉnh mời, lúc ấy đức Phật cùng Chư Tăng đến nhà Phạm Chí

 Khi Thi Bà La thấy đức Phật dung mạo tuyệt vời, chưa bao giờ thấy người
nào có dung mạo như thế, thấy rồi lòng vui mừng vô kể, liền đến truớc đức Phật
vái lễ và nói:

“- Xin Ngài nhận cho tô lạc này, công đức
tràn đầy của Như Lai nếu đúng sự thật, xin khiến bình tô lạc này đầy đủ cho tất
cả chúng Tăng dùng”

 Rồi Thi Bà La bạch:

“- Xin Ngài nhận tô lạc này”

 Đức Phật đưa bát nhận tô lạc, cũng lại cho hết lượt chúng Tăng, tô lạc
vẫn còn dư, Thi Bà La thưa:

“- Bạch Ngài, tô lạc còn dư”

 Đức Phật bảo:

“- Ông đem tô lạc này dâng cho Ta và chúng
Tăng
một lần nữa”.

 Thi Bà La dâng lên đức Phật và hết thảy chúng Tăng một lần nữa, xong đến
thưa:

“- Bẩm Ngài, tô lạc vẫn còn thừa”

 Ngài bảo:

“- Ông đem chia cho tất cả mọi người trong
nhà này thưởng thức”

 Thi Bà La liền đi chia hết vòng hết lượt già trẻ trai gái trong nhà,
nhưng vẫn còn dư, nên trở lại thưa với Phật:

“- Thưa Ngài tô lạc vẫn còn thừa”

“- Ông đem ra ngoài cho bất cứ ai qua lại đều
chia cho hết”

 Một lúc lâu, Thi Bà La trở vào thưa:

“- Thưa Ngài, chẳng thể hết được, tô lạc vẫn
còn dư”

 Bấy giờ đức Phật Tỳ Bà Thi bảo:

“- Ta chẳng thấy ai trong Trời Người, Thiên
Ma
, Quỷ Thần có thể tiêu tô lạc còn dư này, trừ Như Lai, vậy Ông hãy đem đổ
xuống chỗ đất sạch hay chỗ nước trong”.

 Thi Bà La vâng lời Phật liền đem tô lạc còn thừa ấy đổ xuống chỗ nước
trong, ngay khi đó có lửa bùng lên, thấy sự biến hóa kỳ lạ như thế, Thi Bà La
khen ngợi việc chưa từng có, rồi trở về chỗ đức Phật cúi lạy, chắp tay đứng lập
thệ
nguyện:

“-
Nay con đem tô lạc cúng dàng Như Laibốn chúng. Nếu được phước đức thì do
phúc đức này xin chớ đọa vào chỗ bát nạn,
chớ sinh trong nhà nghèo khổ, khi sinh ra thân hình đầy đủ, mặt mũi khôi ngô,
cũng chẳng ở nhà, khiến đời tương lai, con cũng được gặp bậc Tôn Thánh như thế
này.

 

LỜI BÀN:

 Tô
lạc là món gì? Tô lạc làm từ sữa, nó là thức ăn ngon bổ của người Ấn Độ thuở
xưa, cũng giống như giữa cheese và butter bây giờ.

 Trước hết, chúng ta thấy lời phát nguyện của Thi Bà La sau khi cúng
dường
tô lạc dâng Phật, có nói tới: “không
sinh
vào chỗ bát nạn
”, chúng ta cần biết chỗ bát nạn là gi? Bát nạn là tám
trường hợp không thuận lợi xảy ra cho việc đạt giác ngộ, đó là: 1- Địa ngục, 2-
Súc sinh, 3- Ngạ Quỷ, 4- Trường thọ thiên (sống rất lâu), 5- Biên địa (biên
giới
nơi hẻo lánh), 6- Căn khuyết (như mù câm), 7- Tà kiến (thấy sai lệch), 8-
Thời không có Phật hoặc không có Phật pháp (không có giáo pháp của Phật).

 Phần Kinh trên, chúng ta thấy chính Phạm Chí Da Nhã Đạt là người đã khởi
sự gây duyên cho người chăn trâu Thi Bà La được đến gặp Phật. Vì Phạm Chí cúng
dàng Phật, cần mua tô lạc nên đã gặp người chăn trâu, và vì vậy đưa đến việc
người chăn trâu được gặp Phật. Đây cũng là nhân duyên 2 người, chắc rồi sẽ còn
gặp nhau nữa, chúng ta thử để ý xem.

 Cái
tên”Thi bà La” đã xuất hiện từ 91 kiếp về trước, nên đức Phật Thích Ca đã đặt
cho con Trưởng giả Nguyệt Quang với cái tên hàm chứa hai ý nghĩa: một là tên đã
có từ 91 kiếp về trước, hai là khi sinh ra các người xung quanh sợ hãi bỏ chạy
vì đứa bé vừa sanh ra đã ôm cầm hòn ngọc lại biết nói nên họ tưởng là Ma Quỷ
nhập thai.

 Điểm nổi bật nữa cho chúng ta thấy chư Phật làm những việc mà chúng ta
không thể nghĩ bàn tới được, vì những việc làm ấy trái với Khoa học ngày nay.
Chỉ có một bình tô lạc, mà cả nghìn người dùng vẫn còn dư thừa; lại nữa, tô lạc
còn dư ấy đem đổ xuống nước, tự nhiên bốc thành lửa, ví như chúng ta đổ chất
acid xuống nước gây phản ứng giữa acid và nước vậy, nhưng acid ở đâu mà đức
Phật
bỏ vào bình, mà mọi người dùng không sao hết? Khoa hoc không thể lý giải
được việc làm này của chư Phật.

 Việc làm này cũng đã xảy ra đối với Phật Thích Ca khi Tôn giả Tân Đầu Lư
muốn độ cho người giàu có keo kiết là bà Nan Đà, nên Tôn giả đã dùng thần thông
để sau mời được bà mang rổ bánh đến chỗ đức Phật Thích Ca để xin ngài làm lợi
lạc
cho Bà. Đức Phật cũng đã dùng thần thông làm cho rổ bánh ăn hoài không hết,
cuối cùng mang số bánh còn dư đổ xuống nước, lửa bốc lên. Sự việc này đã làm
cho Bà Nan Đà trở thành tin Tam Bảo. Chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn kinh kế
tiếp
đức Phật nói về Thi Bà La.

 

5). NHIỀU KIẾP NỐI TIẾP:

 Trải qua 60 kiếp, đến kiếp 31 về trước (Cách nay khoảng 2.7 tỉ năm), lại
có Phật Thi Khí ra đời (Khi loài người sống 7 vạn tuổi), Ngài du hóa tại Da Mã
cùng đông đảo chúng Tăng.

 Một hôm, Phật Thi Khí vào thành khất thực, xong đến một vườn cây ngồi
ăn, lúc ấy có một thương gia tên Thiện Tài từ xa đi tới, khi thấy đức Phật Thi
Khí
dụng mạo đẹp đẽ hiếm có trên đời, ông liền vui vẻ tiến đến cúi chào rồi
dùng vàng bạc châu báu rải trên thân cúng dàng và phát nguyện:

“- Đem công đức này, mong được sinh vào nhà
nơi có nhiều tiền của, không bị thiếu thốn, dù ở trong thai mẹ cũng có của”.

 Cũng cách nay 31 kiếp, có Phật Tỳ Xá Bà ra đời (Khi loài người sống 6
vạn tuổi), bấy giờ có Trưởng giả Thiện Giác giàu có nhưng ít kẻ hầu hạ. Trưởng
giả
ấy cũng thỉnh mời Phật và chúng Tăng đến nhà thọ nhận cúng dường, đích thân
Trưởng giả trông coi mọi công việc cúng dàng, khi xong, Trưởng giả đứng trước
Phật phát nguyện:

“- Con nay mong sinh ra ở đâu cũng thường có
nhiều người phụ giúp và cũng được gặp Tam Bảo Phật Pháp Tăng, như hôm nay”

 Rồi tới kiếp hiện tại, khi có Phật Câu lưu Tôn ra đời (Khi ấy con người
sống 6 vạn tuổi), bấy giờ có Trưởng giả Đa Tài cũng thỉnh đức Phật Câu Lưu Tôn
chúng Tăng đến thụ sự cúng dàng trong 7 ngày. Không những cúng thức ăn uống,
ông còn cúng đủ thứ cần thiết như áo mặc, thuốc men, vật dụng cần thiết v.v…
Rồi ông phát nguyện:

 “-
Công đức cúng dường này nếu có phước thì nguyện đời sau không sinh vào nhà
nghèo, khiến con tu hành, được mọi người kính trọng từ Quốc Vương đến Nhân dân,
cho đến Trời, Rồng, Quỷ Thần trông thấy con đều tiếp rước đãi ngộ”

 Các Tỳ Kheo nên biết, Phạm Chí Da Nhã Đạt há là người nào sao, nay chính
Trưởng giả Nguyệt Quang, người chăn trâu Thi Bà La đem tô lạc cúng Phật
chính là Thi Bà La bây giờ, thương gia Thiện Tài chính là Thi Bà La, Trưởng giả
Thiện Giác, Trưởng giả Đa Tài đều là tiền thân của Thi Bà La.

 Các Tỳ Kheo nên biết, Thi Ba La đã phát thệ nguyện rằng: “Khiến tôi sinh
ra hằng đoan chính vô song, thường sinh ra trong nhà phú quý, khiến đời tương
lai gặp Như Lai; nếu Ngài vì tôi thuyết pháp, tôi sẽ xuất gia làm Sa Môn, và
được giải thoát”. Do công đức này, đời này, Thi Bà La được sanh trong nhà phú
quý, nay gặp được Ta liền đắc A La Hán.

 Thi Bà La đời trước lại lấy bảo châu rải trên Như Lai, do công đức này ở
trong thai mẹ đã ôm hột châu quý giá mà ra, vừa ra liền biết nói. Do lời phát
nguyện
mong có nhiều người giúp đỡ, nên được cha mẹ tìm kiếm cho 500 người đến
hầu hạ làm bạn, và nay đem 500 đồ chúng ấy đến chỗ Ta xuất gia học đạo đắc A La
Hán
.

 Lại trong 7 ngày cúng dàng Phật Câu Lưu Tôn cầu được bốn món cúng dường,
hôm nay chẳng thiếu áo quần, thức ăn uống, thuốc men, giường nằm. Được chư
Thiên
truyền bảo thôn xóm, khiến bốn chúng biết Thi Bà La. Lại được Thích Đề
Hoàn Nhân
(Vua Trời Đế Thích) tự cúng dàng cấp các món cần thiết.

 Do
những công đức nhiều đời nhiều kiếp như thế, các Tỳ Kheo khác không ai bì kịp,
nên trong hàng đệ tử của Ta, người phúc đức hạng nhất là Tỳ Kheo Thi Bà La.

 

LỜI BÀN:

 Tiếp theo phần trên, chúng ta thấy phần này đức Phật cho biết Phạm Chí
Da Nhã Đạt ở 91 kiếp về trước tạo nhân duyên cho người chăn trâu Tỳ Bà La gặp
Phật Tỳ Bà Thi. Tới thời Phật Thích Ca tại thế Phạm Chí Da Nhã Đạt lại chính là
tiền thân của Trưởng giả Nguyệt Quang, là thân phụ của Thi Bà La, nhân duyên
theo nhau như hình với bóng.

 Phần sau chót của bài Kinh cho chúng ta thấy Tôn giả Thi Bà La đã cúng
dàng chư Phật trong nhiều kiếp. Kết quả của việc cúng dường chư Phật và phát
nguyện
đưa tới phúc báo vô cùng lớn lao. Ví như khi cúng một phần khi hưởng
phước báo gấp trăm nghìn lần hơn lên.

 Có
một điểm cần nêu lên, đó là: phúc đức bố thí rất quan trọng, có bố thí là có
phước. Nhưng chúng ta cần biết có loại bố thí được ít phước, có loại bố thí
được nhiều phước, bố thí cho loại người nào mình được ít phúc, bố thí cho loại
người nào mình được nhiều phúc; ví như cùng là hạt giống giống nhau, cùng điều
kiện
giống nhau, nếu đem gieo vào đất xấu sẽ gặt được it, nếu đem gieo vào đất
tốt sẽ gặt được nhiều gấp mấy lần vậy.

 

Toàn Không


b