Những Lời Kiêu Mạn

0
34

NHỮNG LỜI KIÊU MẠN
Toàn Không

 

Khi đức Phật
du hóa đến núi Tỳ-ha-La, thuộc thành La-duyệt-Kỳ, Ngài trú ngụ trong động cây
Thất-diệp (Sau này tập kết Kinh Luật ở đây); có một vị Cư-sĩ tên là Tán-đà-Na
thuộc thành La-duyệt-Kỳ, cứ mỗi ngày thường đến chỗ Phật ngụ. Một hôm trên
đường đi, Cư-sĩ Tán-đà-Na nhìn bóng mặt trời thấy còn sớm, vì Cư-sĩ nghĩ rằng
đức Phật còn đang nhập định, và các vị Tỳ-kheo cũng còn đang thiền-định; nghĩ
như vậy, nên Cư-sĩ Tán-đà-Na tạm thời tạt vào nghỉ chân tại rừng Ô-tạm Bà-Lợi.

Lúc đó
trong rừng Ô-tạm Bà-Lợi có Phạm-chí tên là Ni-câu-Đà cùng năm trăm đệ-tử ở đó,
họ đang lớn tiếng bàn luận chính trị. Khi Phạm-chí Ni-câu-Đà vừa trông thấy
bóng dáng Cư-sĩ Tán-đà-Na từ xa đi tới, ông liền ra lệnh:

Mọi người hãy giữ im lặng, vì có người lạ đang đi tới.

Từ xa,
Cư-sĩ đã nghe tiếng nói chuyện ồn ào, nên sau khi gặp, chào hỏi xã giao xong,
ông nói với Phạm-chí Ni-câu-Đà:

– Thầy tôi là Sa-môn Cù-Đàm thường ưa yên tịnh không
chịu ồn ào, không giống như các ông thường hay bàn luận ồn ào.

Phạm-chí
Ni-câu-Đà đáp lời:

– Sa-môn Cù-Đàm có lần nào cùng ông đàm luận không, Ông
làm sao biết được Sa-môn Cù-Đàm có đại trí-tuệ? Ông ở nơi biên địa khác nào như
trâu đui ăn cỏ, sự thấy biết của ông thiên lệch; Sa-môn Cù-Đàm thầy của ông
cũng vậy, ưa bảo thủ những quan niệm thiên lệch, và thích ở chỗ không người;
nếu thầy ông tới đây, chúng tôi sẽ gọi là “con
trâu đui”.
Còn việc Sa-môn Cù-Đàm thường tự xưng là đại trí-tuệ, nhưng
chúng tôi chỉ cần dùng một câu là làm cho ông ta bí lối, mà phải làm thinh; ông
ta cũng ví như “con rùa thun rụt hết đầu
đuôi bốn chân vào vỏ”
, và cho như thế là yên, nhưng chúng tôi chỉ cần một
mũi tên bắn ra là không còn chỗ trốn.

Bấy giờ đức
Thế-Tôn đang ở trong tịnh-thất nghe (Ngài dùng Thiên nhĩ) Phạm-chí nói những
lời như thế, Ngài liền rời động cây Thất-diệp, đi đến chỗ Phạm-chí Ni-câu-Đà.
Phạm chí Ni-câu-Đà trông thấy đức Phật từ đằng xa đi tới, vội bảo các đệ-tử
rằng:

– Sa-môn Cù-Đàm đang đến đây, vậy các ngươi chớ đón
tiếp, không cung kính, cũng không mời ngồi; trái lại chỉ một chỗ riêng cho ông
ta ngồi mà thôi, rồi hỏi: “Sa-môn Cù-Đàm
từ đâu tới? Ông dùng pháp gi để dạy đệ-tử khiến họ được tịch tĩnh ?”.

 

Phạm-chí
vừa nói xong thì đức Thế-Tôn cũng vừa tới nơi, các đệ-tử Phạm-chí tự nhiên đứng
dậy
nghênh tiếp và nói:

– Qúy hóa thay đức Cù-Đàm đến đây! Vinh hạnh thay đức
Sa-môn đến đây! Xin mời Ngài ngồi tạm chỗ phiá trước đây, từ lâu không được gặp
Ngài, nay có việc gì Ngài lại đến đây?

Tại sao họ
lại thay đổi thái độ một cách mau chóng như vậy? Đó là do oai nghi thần-lực của
Phật khiến ác tâm của họ bị tiêu tan. Sau khi đức Phật an tọa rồi, cư-sĩ
Tán-đà-Na cúi đầu đảnh lễ Phật, rồi ngồi qua một bên, lúc ấy Phạm-chí Ni-câu-Đà
nói:

– Sa-môn Cù-Đàm: từ đâu đến đây, Ông dùng pháp gì để dạy
đệ-tử khiến họ được tịch tĩnh?

Đức Phật
liền nói:

– Thôi đi Phạm-chí: pháp của Ta dạy bảo đệ-tử từ trước
đến nay thì không thể nào ông so sánh được, ngay cả thầy ông và đệ-tử tu hành
tịnh hay bất tịnh Ta đều có thể nói được.

Lúc đó các
đệ-tử của Phạm-chí bàn tán với nhau: ”Sa-môn Cù-Đàm có thần-lực lớn, có trí-tuệ lớn, người ta hỏi nghĩa lý
của mình, mà mình lại nói nghĩa lý của người ta”
. Khi ấy Phạm-chi Ni-câu-Đà
nói:

– Tốt lắm, xin ông hãy phân biệt rõ ràng, chúng tôi đang
muốn nghe.

Đức Phật
nói:

– Những việc làm của các ông đều thấp kém như lõa thể
rồi lấy tay che, hoặc không nhận thức ăn đựng trong bát. Không nhận đồ ăn khi
người ta đang ăn, hoặc khi nhà người ta có người đang có thai. Không nhận thức
ăn khi nhà có chó đưng trước cửa, hoặc nhà có nhiều ruồi. Không nhận thức ăn
khi người tu hành mời, hoặc một ngày hai ngày cho đến bảy ngày chỉ ăn một bữa.
Hoặc chỉ ăn rau, chỉ ăn cỏ, chỉ uống nước cháo, chỉ ăn mè (vừng), chỉ ăn gạo
sống. Hoặc ăn phân bò, phân nai; hoặc ăn rễ, búp, lá, hạt; hoặc ăn qủa (trái
cây) rụng; hoặc choàng áo trên vai, mặc áo cỏ, áo vỏ cây, áo da nai; hoặc cuốn
cỏ quanh mình, mang tấm lông, mặc áo bỏ ngoài gò mả; hoặc không ngồi giường,
cạo tóc chừa râu, nằm trên chông gai; hoặc nằm trên trái cây vỏ cứng, lõa thể
nằm trên đống phân bò; hoặc một ngày tắm ba lần, hoặc một đêm tắm ba lần.

Tóm lại:
các ông dùng vô số khổ hạnh để hành hạ xác thân như thế, ông nghĩ sao, tu khổ
hạnh
như vậy đáng gọi là thanh tịnh chăng; nếu ông cho là thanh tịnh, Ta sẽ từ
trong cái tịnh ấy mà chỉ ra những điều bất tịnh cho ông xem.

Phạm-chí
đáp:

– Đó là những pháp thanh tịnh chứ chẳng phải là bất
tịnh
, ông cứ nói những điều bất tịnh, tôi đang muốn nghe.

 

Đức Phật
bảo:

– Người tu khổ hạnh, trong tâm vẫn tự nghĩ: “Nay ta tu
như thế này, sẽ được mọi người nể vì, cung kính, lễ bái, cúng dường”, đó không
phải là thanh tịnh, mà là cấu uế (dơ bẩn, xấu xa, đê hèn, tồi tệ); người tu khổ
hạnh
khi được cung kính, lễ bái, cúng dường liền say đắm không muốn từ bỏ,
luyến ái không muốn thoát ly, đó là luyến ái xấu xa cấu uế.

Khi vừa
trông thấy bóng dáng người lạ đến, vội vàng cùng bảo nhau ngồi thiền, nhưng khi
không có người lạ lại tự ý đi đứng, ngồi nằm, chuyện trò thỏa thích, đó là
không chân chính, cấu uế; khi nghe chính nghĩa của người khác không chịu nhìn
nhận, đó là kiến giải sai lầm cấu uế; nếu ai hỏi đúng mà tiếc rẻ không chịu
đáp, đó là tư tưởng xấu xa cấu uế.

Thấy người
cúng dàng Sa-môn, Bà-la-Môn, sinh lòng chê bai, cản trở gièm pha, đó là cấu uế
hèn hạ; nếu có thức ăn, tham lam giữ ăn một mình, đó là ích kỷ dơ bẩn cấu uế; người
tu khổ hạnhsát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời ly gián, nói lời
độc ác, nói lời thêm bớt, tham lam, sân hận, tà kiến, đó là cấu uế.

Tu khổ hạnh
mà lười biếng, ham vui mê mờ, không tu thiền định, đó là buông lung phóng đãng
cấu uế; người tu khổ hạnh không có tín nghĩa, không giữ tịnh giới, không siêng
năng học hỏi, kết bạn cùng người ác để làm việc ác, đó là cấu uế; nếu tu khổ
hạnh
mà thích làm những điều xảo trá, tìm tòi những chỗ sơ hở của người khác,
đó là thấp hèn cấu uế.

Thế nào
Ni-câu-Đà, lối tu khổ hạnh như vậy đáng gọi là thanh tịnh chăng?, Ta sẽ từ
trong pháp cấu uế của các ông mà chỉ ra pháp thanh tịnh không cấu uế.

Phạm-chí
Ni-câu-Đà đáp:

– Đó là bất tịnh chứ không phải là thanh tịnh, xin Ngài
cứ nói những pháp thanh tịnh không cấu uế.

Đức Phật
giảng:

Người tu
khổ hạnh
không tự nghĩ rằng: “Ta tu như
thế sẽ được cung kính, lễ bái, cúng dường”,
đó là pháp khổ hạnh dứt trừ cấu
uế
; người tu khổ hạnh khi được cúng dường, nhưng tâm không tham đắm, biết cách
thoát ly, xa lià, đó là tốt đẹp không cấu uế.

Tu khổ hạnh
thường tu tọa thiền theo thường lệ, chứ không vì có người hay không có người
đến mà thay đổi, đó là chân chính xa lià cấu uế; khi nghe đến chính nghĩa của
người khác liền vui vẻ tin nhận, đó là đúng đắn không cấu uế; nếu có ai hỏi han
liền vui vẻ giải đáp, đó là đàng hoàng xa lià cấu uế.

Khi thấy
người cúng dường Sa-môn, Bà-la-Môn, thì vui mừng thế cho họ không gièm pha cản
trở
, đó là có tâm hoan hỉ không cấu uế; lúc nhận được thức ăn, không luyến tiếc
tham đắm, không dành ăn một mình, mà chia cho kẻ khác, đó là vị tha hòa đồng xa
lià cấu uế; không tự khen mình chê người, đó là chân chính không cấu uế.

Không sát
sinh
, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời ly gián,
không nói lời thêm bớt, không nói lời độc ác, không tham lam, không giận hờn
thù hận, không tật đố tà kiến, đó là đoạn diệt cấu uế.

Chẳng tự
cao tự đại, chẳng kiêu căng ngã mạn, đó là xa lià cấu uế; giữ lòng tín nghĩa,
thực hành hạnh báo đáp, giữ gìn tịnh giới, siêng năng học hỏi, làm bạn với
người lành, lo tích chứa điều lành, đó là phạm hạnh không cấu uế; không xảo
quyệt, không ỷ mình hiểu biết, không tìm khuyết điểm của người, đó là cao cả xa
lià cấu uế.

Này
Ni-câu-Đà nghĩ thế nào, pháp khổ hạnh như vậy có phải là pháp thanh tịnh xa lià
cấu uế không?

Phạm-chí
đáp:

– Đúng vậy, qủa thật đó là những pháp thanh tịnh xa lià
cấu uế.

Rồi Phạm-chí
hỏi Phật:

– Chẳng hay pháp khổ hạnh đến mức độ này có được gọi là
kiên cố đệ nhất hay chưa? Xin Ngài cho biết.

– Chưa, đó mới chỉ là vỏ cây thôi, chưa được gọi là kiên
cố
. Này Ni-câu-Đà, người tu khổ hạnh tự mình không sát sinh, không trộm cướp,
không tà dâm, không nói dối, không nói hai lời đối chọi nhau, không nói lời ly
gián
, không nói lời thêm bớt, không nói lời độc ác, không tham lam, không giận
hờn thù hằn, không tật đố tà kiến. Người tu khổ hạnh cũng không bảo người khác
làm các việc ác ấy, người này đem tâm Từ trải khắp một phương, đến các phương
khác cũng vậy, với tâm Từ quảng-đại, bình đẳng khắp cả thế-gian, không oán
giận; với tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả cũng như thế, người tu khổ hạnh này mới được
gọi là lõi cây.

– Xin Ngài nói về nghĩa khổ hạnh kiên cố.

– Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.

– Vâng.

– Người tu khổ hạnh đã như lõi cây ở trên rồi, còn phải
biết việc xảy ra trong vô số kiếp về trước, hoặc một đời, hoặc hai đời cho đến
vô số đời, quốc độ thành hoại hay kiếp số trước sau đều biết hết. Đồng thời còn
phải biết rõ mình từng sinh vào chủng tộc đó, tên tuổi như thế, từ đó sinh về
đây, từ đây chết đi rồi sinh về kia; tất cả những việc từ vô số kiếp như thế
đều nhớ cả, đó là người tu khổ hạnh kiên cố không hoại.

– Xin Ngài giảng thế nào là pháp khổ hạnh bậc nhất?

– Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.

– Vâng, thưa đức Thế-Tôn, con đang muốn nghe.

– Này Ni-câu-Đà, những người tu khổ hạnh đã không làm
mười điều ác, cũng không bảo người khác làm mười điều ác; vị ấy đem trải tâm
Từ
, Bi, Hỷ, Xả rải khắp thế-gian. Vị ấy tự biết việc xảy ra cho chính mình
trong vô số kiếp, và vị ấy có thể dùng thiên-nhãn thanh tịnh quán sát các loại
chúng-sanh thấy họ chết đây sinh kia, sinh ở cõi tốt, cõi xấu đều thấy biết
hết. Lại còn thấy rõ có chúng-sanh thân làm điều ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ
việc ác, hủy báng thánh-hiền, tin theo tà đạo dị kiến, sau khi chết bị đọa vào
ba cõi dữ là Địa-ngục, Súc-sinh và Ngạ-qủy. Vị ấy còn thấy biết có chúng-sanh
làm các điều lành, miệng nói các lời chân thật, ý nghĩ các việc tốt lành, ca ngợi
thánh-hiền, tu hành chính tín, và sau khi qua đời được sinh vào cõi tốt là cõi
Trời
hoặc cõi Ngườiđịa vị giàu sang. Vị ấy với thiên-nhãn thanh-tịnh thấy
chúng-sanh theo hành-nghiệp (việc làm, lời nói, ý nghĩ) mà chết đi ở cõi này và
sinh đến cõi kia, không có gì mà không thấy không biết, đó là khổ hạnh thù
thắng
bậc nhất.

Đức Phật
giảng tiếp:

– Còn có pháp thù thắng hơn nữa mà Ta thường đem giảng
dạy cho hàng Thanh-văn, và họ nhờ pháp ấy mà tu được phạm-hạnh, trở thành bậc
Thánh.

Bấy giờ các
đệ-tử Phạm-chí đồng nghĩ và bảo nhau: “Nay
chúng ta mới thấy được đức Cù-Đàm là tối thượng, Thầy ta không thể so sánh
được”.

Khi ấy
Cư-sĩ Tán-đà-Na nói với Phạm-chí Ni-câu-Đà:

– Trước đây ông đã nói như thế này: “Hễ thấy Sa-môn
Cù-Đàm đến đây, chúng tôi sẽ gọi là “con
trâu đui”
. Chúng tôi chỉ một câu là đủ làm cho Sa-môn Cù-Đàm bí lối mà phải
làm thinh như con rùa thun cả đầu, đuôi, bốn chân vào trong vỏ và cho thế là
yên; nhưng chúng tôi chỉ cần một mũi tên bắn ra là Sa-môn Cù-Đàm không còn chỗ
trốn”, sao ông không đem những lời này ra làm bí lối đức Thế-Tôn?

Phạm-chi
cúi mặt lặng thinh không nói năng chi cả, đức Phật hỏi Phạm-chí:

– Trước đây ông có nói như vậy không?

– Thưa có, qủa thật tôi có nói, nếu tôi biết như vầy,
tôi đã chẳng dám nói như thế đối với đức Cù-Đàm.

– Ông khá không nghe các bậc tiền bối thường nói: “Chư Phật,
Như-Lai thường ưa ở núi rừng thanh vắng”,
như Ta ngày nay ưa ở chỗ vắng,
chứ không như các ông chỉ thích ở chỗ ồn ào, nói chuyện vô ích suốt ngày.

Phạm-chí
nói:

– Tôi có nghe nói chư Phật trong quá khứ ưa chỗ vắng,
độc cư trong rừng như Thế-Tôn ngày nay, chẳng như chúng tôi ưa chỗ ồn ào, nói
điều vô ích suốt ngày.

Đức Phật
bảo:

– Ông há không biết Sa-môn Cù-Đàm hay thuyết pháp về đạo
Bồ-đề rằng: “Không những tự điều phục mình
mà còn điều phục cho kẻ khác, không những dứt phiền não cho mình mà còn dứt
phiền não cho kẻ khác. Không những tự mình qua đến bờ giác giải thoát, mà còn
độ cho người khác đến bờ giác giải thoát”.

Khi ấy
Phạm-chí Ni-câu-Đà, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, đầu mặt đảnh
lễ
, tay sờ chân Phật, tự xưng tên mình và nói:

– Con là Ni-Câu-Đà, nay xin quy y Phật, và con xin đảnh
lễ
dưới chân Ngài.

Đức Phật
dạy:

– Thôi đi Ni-câu-Đà, hãy đứng dậy, chỉ cần tâm ông hiểu
lời Ta nói, là đã đảnh lễ Ta rồi.

Lúc đó
Phạm-chí Ni-câu-Đà lại đảnh lễ một lần nữa dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một
bên, Đức Phật đạy tiếp:

– Này Ni-Câu-Đà,

Chớ nghĩ
rằng: “Như-Lai vì lợi dưỡng (lợi lộc về
cơm áo v.v..) mà thuyết pháp, vì nếu có lợi dưỡng thì Ta bố thí hết cho ông. Ta
thuyết Pháp vi diệu bậc nhất với mục đích diệt trừ làm việc ác, và tăng trưởng
làm việc thiện của chúng-sanh mà thôi”.

Ông không
nên nghĩ: “Như-Lai vì muốn được sự tôn
trọng
, vì muốn được tiếng khen, vì muốn là người dẫn đầu nên nói pháp. Nay
quyến thuộc của ông Ta trả hết cho ông, Ta thuyết pháp với mục đích diệt trừ
điều ác, tăng trưởng điều thiện của chúng-sanh mà thôi”.

Cũng chớ
nghĩ rằng: “Như-Lai sẽ đặt ông ở nơi
thiện pháp thanh bạch, mà chính ông phải tự mình ở nơi thiện pháp và siêng năng
tu hành. Có như vậy, Như-Lai sẽ nói thiện pháp thanh bạch cho ông để diệt trừ
điều ác tăng trưởng điều thiện”.

Lại nữa,
ông đừng nghĩ: “Như-Lai vì muốn làm thầy
cho nên thuyết pháp. Ta trả ông lại cho thầy ông, Ta chỉ nói pháp cho ông nghe
mà thôi”.

Sau cùng,
nếu ông cho rằng: “Ta có thiện pháp tương
ưng
thiện, giải-thoát tương ưng giải-thoát, nhưng Sa-môn Cù-Đàm đoạt của ta”,

Ông chớ nghĩ như vậy, Ta trả lại pháp của ông cho ông, Ta chỉ giảng pháp cho
ông nghe thôi.

Lúc bấy giờ
cả hội chúng đều yên lặng, không có một ý niệm nào, không có một ai lên tiếng
gì cả, vì do ma ngu si ám. Đức Phật thấy vậy, liền bảo Cư-sĩ Tán-đà-Na:

– Ta muốn trở về Tịnh-thất, ông hãy đi với Ta.

Đức Phật đứng dậy, nắm tay Cư-sĩ
Tán-đà-Na, rồi Ngài vận dụng Thần-túc nương hư khôngđi trước sự ngơ ngác
của mọi người..,.

 

Toàn Không