Lục Ba La Mật

0
41

LỤC BA-LA-MẬT
(ṣaṭ pāramitā) 六波羅蜜多
Thích Đức Thắng

Đây
là sáu phương pháp thực tiễn tu tập dành cho các hàng đệ
tử
của đức Đạo sự từ tại gia cũng như xuất gia và,
nhất là dành cho các hàng Bồ-tát tu tập muôn hạnh trong việc
tự độ và độ tha; có nơi còn gọi là Lục độ vạn hạnh.
Lục ba-la-mật gọi đủ là Lục Ba-la-mật-đa. Ở đây, Lục
Ba-la-mật-đa
được dịch nghĩa cùng phiên âm từ chữ Phạn
Ṣaṭ parāmitā; ṣaṭ có nghĩa là sáu, còn parāmitā được
phiên âm là Ba-la-mật-đa có nghĩa là vượt qua (độ), đến
bờ bên kia
, tức là chỉ cho sáu phương pháp để hành giả
tu tập đến bờ bên kia (từ bờ mê đến bờ giác); Parāmitā
còn có những nghĩa: Tuyệt đối, nghĩa hoàn toàn, rốt ráo,
thành tựu, có nghĩa là đạt thành lý tưởnghành giả
đã đặt ra cho mình, là hoàn thành mọi ý nguyện, đó chính
mục tiêu cuối cùng của các hành giả thực hành con đường
Bồ tát của mình qua sáu phương pháp vừa tự lợilợi
tha
. Sáu phương pháp này có khả năng độ thoát biển khổ
sinh tử đạt đến thường lạc Niết-bàn của bờ bên kia
theo nghĩa tương đối. Theo Lục Độ Tập kinh quyển 1 thì:
Chư Phật biết chúng sanh khó đuổi kịp hạnh cao, nên
vì họ nói sáu độ vô cực của Bồ-tát đề họ mau được
làm Phật. Sao gọi là sáu? Một là Bố thí, Hai là Trì giới,
Ba là Nhẫn nhục, Bốn là Tinh tấn, Năm là Thiền Định, Sáu
Minh độ vô cực (Trí tuệ Ba-la-mật).”
Sáu Ba-la-mật
chúng ta gặp rải rác trong khắp các văn bản Kinh, Luật, Luận
trong Tạng Đại Chánh Tân Tu. Trong đó, Lục Độ Tập kinh,
Lục Ba-la-mật kinh v.v…, toàn kinh đều giảng rộng về về
hành Lục Độ; ngoài ra, những kinh khác như kinh Đại Bát
Nhã
5, 7, 9 phần cuối, Luận Đại Trí Độ 11 phần cuối cũng
đều tường thuật rõ ràng về chúng, đó là pháp môn cực
kỳ trọng yếu của kinh điển Đại thừa Phật giáo. Về
ý nghĩa của Lục Độ này được lược thuật như sau:

1 –
Đàn-na
Ba-la-mật
(dāna-pāramitā), hay còn phiên Đà-na Ba-la-mật,
người Trung quốc dịch nghĩa phiên âm là Bố thí ba-la-mật,
hoặc Bố thí đáo bỉ ngạn, Thí ba-la-mật, Bố thí độ
cực
. Cũng dịch là bố thí hoàn toàn tuyệt đối, hay hoàn
thành
Bố thí, trong đó có cả ba loại Tài thí, Pháp thí và,
Vô úy thí

2 –
Thi-la
Ba-la-mật
(Śīla-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa,
phiên âm là Trì giới Ba-la-mật, hay còn gọi là Giới độ
vô cực. Cũng có nghĩa là tuyệt đối, trì giới hoàn toàn,
hay hoàn thành trì giới, tức là chỉ cho việc trì giữ luật
nghi giới
, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới,
chúng có khả năng đối trị nghiệp ác khiến cho thân và
tâm thanh tịnh

3 –
Sàn-đề
Ba-la-mậ
t (ksānti-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa,
phiên âm là Nhẫn nhục Ba-la-mật hay An nhẫn Ba-la-mật, Nhẫn
nhục độ
vô cực. Cũng dịch là tuyệt đối, an nhẫn hoàn
toàn
, hay hoàn thành nhẫn, tức là chỉ cho việc tu tập nhẫn
nại oán hại, An nhẫn chịu khổ, xét kỹ pháp nhẫn có khả
năng đối trị sân nhuế, khiến tâm trụ vào an ổṇ

4 –
Tỳ-lị-da
Ba-la-mật
(vīrya-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa,
phiên âm là Tinh tấn Ba-la-mật, hay Tinh tấn độ vô cực.
Cũng có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn tinh tấn, hoàn
thành
tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Tinh
tấn
siệng năng tu tập các thiện pháp, hành đạo, lễ tụng,
giảng thuyết, siêng giúp, khai hóa, tức là chỉ cho thân siêng
năng tinh cần tu tập bố thí, trì giới thiện pháp và tâm
siêng năng hành thiện đạo, tâm tâm liên tục miên mật siêng
năng tu tập nhẫn nhục, thiền định trí tuệ. Cho nên tinh
tấn
cả khả năng về hai mặt thân và tâm để đối trị
với căn bệnh lười biếng của ác pháp sinh trưởng các pháp
lànḥ

5 –
Thiền-na
Ba-la-mật
(dhyāna-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa,
phiên âm Thiền định Ba-la-mật, hay Tịnh lự Ba-la-mật, Thiền
độ
vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, thiền định
hoàn toàn, hay hoàn thành thiền định, tứ là chỉ cho sự
tu tập tịnh lự hiện pháp lác trú, tịnh lự đưa đến thần
thông
, tịnh lự lợi lạc hữu tình, chúng có khả năng đối
trị
loạn ý, nhiếp giữ ý niệm đối tượng bên trong không
cho chạy theo các duyên bên ngoài.

6 –
Bát
Nhã
Ba-la-mật
(prajñā-pāramitā), người Trung quốc dịch
nghĩa, phiên âm trí tuệ Ba-la-mật, hay Minh độ vô cực. Cũng
có thể dịch là tuyệt đối, trí tuệ hoàn toàn, hoàn thành
trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng
nghĩa
, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si,
biết rõ thật tướng các pháp hiện hữubiến dịch

Qua
những tóm lược về ý nghĩa công dụng của Lục Ba-la-mật,
cho hành giả chúng ta có một nhận thức cơ bản về cả hai
mặt
tự lợilợi tha cho cả hai Thừa của Phật giáo,
tuy trên mặt căn cơ có sự sai biệt, nhưng về mặt tác dụng
chúng vẫn có những giá trị nhân quả ngang nhau dù là đại
hay tiểu, dù là tiêu cực hay tích cực, chúng vẫn mang lại
cho hành giả những kết quả theo từng thuộc tính của chúng.

– Về
Đàn-na
Ba-la-mật
(dāna-pāramitā), ở đây được y cứ vào tâm
từ
bi mà thể hiện phước lợi cho mình và cho người. Bố
thí
vốn được phát xuất từ sự khuyến khích và hướng
dẫn của chính đức Đạo sư cho các hàng Phật tử Ưu-bà-tắc
tại gia thực hành pháp này về tài vật. Ý nghĩa vật chất
của nó không ngoài dùng y thực cùng tất cả những vật thực
khác có được cúng dường hay bố thí cho những vị có đức
lớn và những người cùng khổ nghèo nàn; và cho đến thời
kỳ
Đại thừa phát triển thì bố thí là một pháp trong Lục
Ba-la-mật
, ngoài Tài thí ra còn thêm hai pháp nữa đó chính
Pháp thíVô úy thí đem tài vật, thể lực, trí tuệ
ra bố thí rộng rãi cho người khác, vì người khác tạo phước
thành trí mà cầu được công đức dần dần tích lũy trở
thành
to lớn, đó chính là một phương pháp tu hành đưa hành
giả
đi đến chỗ giải thoát. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương
12 giải thích thì, nghĩa của Bố thí là dùng tài vật của
mình mà phân phát cho người khác được gọi là Bố; còn
tình thực mình ban ân cho người thì gọi là thí.

Mục
đích

Bố thí của các nhà Tiểu thừa là để dẹp trừ tính cò
kè bớt một thêm hai cùng lòng tham cá nhân trong hiện tại,
tạo ra tác nhân vì mình vì người mà hành thí khiến tránh
khỏi
cái hậu quả bần khốn trong đời vị lai, trong khi các
nhà Đại thừa thì liên kết Bố thí với giáo nghĩa Đại
từ đại bi
tâm để tự cứu thoát mình cứu thoát mọi người.
Người bố thí giúp đỡ tiền tài vật chất được gọi
Đàn Việt (dānapani, là chỉ cho người cúng dường, người
giúp đỡ, ý dịch là người chủ bố thí, hay đàn-na chủ
gọi tắt là Đà-na); còn của cải tài vật được đem ra
bố thí gọi là của cải giúp đỡ, tài vật giúp đỡ, vàng
bạc
giúp đỡ, tiền tài giúp đỡ, nhà cửa giúp đỡ (Nhà
cửa cúng dường cho Tăng chúng), vật giúp đỡ phân chia, vật
tín đồ cúng dường.

Bố
thí
có khả năng khiến cho con người xa lìa lòng tham, như
chúng ta đối với Phật, Tăng cùng những người bần cùng
cúng dường giúp đỡ y phục, đồ ăn thức uống, của
cải
vật chất thì cái hậu quả tất yếu là chúng ta sẽ
chiêu cảm được quả báo hạnh phúc có được về vật chất
sung túc dư giã sau này. Đó là đức Đạo sư chỉ mới dạy
cho chúng ta tự thể hiện lòng từ qua bố thí vật chất,
còn về mặt tinh thần trong đó bố thí cũng được vì mọi
người
hướng dẫn tuyên giảng về chánh pháp khiến cho người
ta chỉ ác hành thiện không những chỉ đạt được công đức
lợi mình lợi người mà còn sinh về nơi nhân thiên hưởng
lạc quả sau này qua Pháp thí, đức Đạo sư không những chỉ
dừng lại ở đó mà còn khiến cho mọi người ly khai xa lia
lòng sợ hãi do vô minh mang lại làm cho chúng ta không làm chủ
được vận mệnh của chính mình mà phải đem giao phó cho
những thần linh không biết bên ngoài làm chủ, đó chính là
đem lại cho mọi người lòng vô úy không sợ hãi mà đức
Đạo sự gọi pháp này là Vô úy thí. Giữa ba cách bố thí
này sự khác nhau hiển nhiên về giá trị vật chấttinh
thần
với nhau mà chúng còn khác nhau trên mặt đánh giá tiêu
cực
tích cực trong ý nghĩa thế gianxuất thế gian.
Ngay đến Bố thí, nếu bố thí với mục đích vì để xa
lìa
lòng tham và để khai ngộ việc chỉ ác hành thiện thì
được gọi là thanh tịnh thí, còn nếu ngược lại mà bố
thí
thì bố thí này gọi là bất thanh tịnh thí. Đối với
Pháp thí, giá trị nội hàm của chúng cũng tùy thuộc vào
thuộc tính của chính chúng, có nghĩa là Pháp thí chỉ dạy
mọi người pháp sinh về Nhơn-Thiên Pháp thí thế gian, còn
giáo pháp dạy người làm Phật thì gọi là Pháp thí xuất
thế
. Ngoài Tài thíPháp thí thông thường ra, riêng Bố
thí
Ba-la-mật cũng tùy thuộc vào thời gian mà khu biệt có
hai loại. Loại thứ nhất được gọi là Bố thí, theo kinh
Ưu-bà-tắc giới 2 thì, việc hành Thí của các hàng Thinh Văn,
Duyên Giác, Phàm phu, ngoại đạo cùng việc hành thí của các
hàng Bồ-tát ở vào thời gian sơ hay nhị A-tăng-kỳ kiếp
thì vẫn còn gọi là Thí; còn các hàng Bồ-tát từ đệ tam
A-tăng-kỳ kiếp trở lên mà hành thí thì gọi là Thí Ba-la-mật.
Theo kinh Bồ-tát Thiện Giới 1, phẩm tự thì, các hàng Bồ-tát
tại gia hành Tài thí cùng Pháp thí, còn các hàng Bồ-tát xuất
gia
hành Tứ thí: bút thí, mặc thí, kinh thí và, thuyết pháp
thí, trong khi các hàng Bồ-tát Vô sanh nhẫn thì chỉ hành có
Cụ túc thí, Đại thí và, Vô thượng thí thôi. Theo Câu Xá
luận
18 thì có 8 loại Bố thí: Tùy chí thí, Bố úy thí, Báo
ân thí
, Cầu báo thí, Tập tiên thí, Yếu danh thí, Vị trang
nghiêm
tâm đẳng thí. Cũng trong luận này đưa ra bảy loại
thí khác nữa: Thí khách nhơn, Thí hành nhơn, Thí bệnh nhơn,
Thí thĩ bệnh giả, Thí viên lâm, Thí thường thực, Tùy thời
thí. Theo kinh Hoa Nghiêm 12 có 10 loại thí: Tu tập thí, Tối
hậu
nạn thí, Nội thí, Ngoại thí, Nội ngoại thí, Nhất
thiết thí
, Quá khứ thí, Vị lai thí, Hiện tại thí, Cứu
Cánh
thí. Đó là những sự sai biệt tùy thuộc vào nội hàm
của những thuộc tính mà theo các kinh luận đưa ra về nội
dung, thái độ, cùng mục đích không đồng của chúng, nên
có những phương thức phân loại như vậy. Hơn nữa nếu chúng
ta
căn cứ vào thật tướng Duyên Khởi của các pháp để
đánh giá thì tự chúng: Người thí, người nhận, vậy được
bố thí cà ba từ bản chất của chúng vốn là Không, không
tồn tại
bỡi luật vô thường tác dụng chi phối, nên Tánh,
tướng chúng vốn không, vốn như huyễn chúng ta căn cứ vào
đâu để mà chấp phá. Vì vậy cho nên gọi là ba luân thể
không
, ba luân thanh tịnh là vậy. 

– Về
Thi-la
Ba-la-mật
(Śīla-pāramitā), nguyên ngữ căn của động từ
√īl có nghĩa là hành vi, động tác khi chuyển sang danh từ
thì nó chỉ chung cho mọi hành vi, hay tập quán, tính cách,
đạo đức của con người. Thi-la Ba-la-mật là hành giới của
Lục Ba-la-mật được đức Đạo sư y cứ vào việc làm, hành
vi
các đệ tử của mình, nếu không phù hợp với chánh pháp
thì theo đó mà Ngài chế định giới cấm, khiến cho đệ
từ của Ngài sau đó không được phạm vào những điều giới
đã ngăn cấm đó nữa. Với mục đíchngăn ngừa những
điều sai lầm, đình chỉ những việc làm xấu xa không phù
hợp
với chánh pháp. Ngoài những ý nghĩa như trên ra Thi-la
Ba-la-mật
, theo Tạp A-tỳ đàm tâm luận 10 thì nó còn có những
nghĩa như: Tu tập, Chánh thuận, Tam-muội, Thanh lương cùng
an giấc; còn theo luận Đại Tỳ-bà-sa 44 thì lại có mười
nghĩa sau: Thanh lương, yên giấc, luôn tập, đạt định, Toại
đăng (đường hầm lên núi), Gương sáng, Bậc thềm, Tăng
thượng
, Đứng đầu. Nhưng ở đây, đối với Thi-la Ba-la-mật
thì nó có nghĩa là Thanh lương, mát mẻ mà nói, vì tội của
ba nghiệp thân-khẩu-ý hay khiến cho người tu hành sinh phiền
não
nóng nảy bực bội, mà giới thí có khả năng đình chỉ
và làm dịu mát đi những phiền não bực bội nóng nảy đó,
làm cho hành giả đạt được mọi sự an vui, cho nên Thi-la
ở đây có nghĩa là Thanh lương. Ngoài ra cũng có rất nhiều
văn bản trong kinh luận có sự giải thích khác nhau, nhưng
đó chỉ là những giải thích tùy thuộc vào thuộc tính của
nhũng đối tượng cần được giải thích như vậy, cho phù
hợp
với căn cơ của đối tượng đó.Tuy nhiên dù có giải
thích
như thế nào đi nữa thì, ý nghĩa cơ bản của chúng
cũng không mất đi giá trị chính của nó là: phòng ngửa tội
lỗi
đình chỉ mọi việc ác không làm, đó là ý nghĩa
chính của nó. Vì vậy cho nên việc trì giới rất quan trọng
đối với con đường giải thoát khổ đau, nếu không trì
giới
mà đòi giải thoát khổ đau được là điều không thể
có được trong giới pháp của Ngài. Vì hành giả đến với
đức Phật là đến để thực hành giải thoát chứ không
phải đến với đức Phật để hiểu và biết giới pháp
giải thoát là thế nào! Ở đây việc giữ giới thật là
quan trọng nếu hành giả muốn thoát khổ. Trong việc trì giới
hành giả không hiểu và thấu suốt được bốn việc phải
làm của hành giả trong khi trì giới thì kể như việc trì
giới
không thành công. Bốn việc đó là: Chỉ là trì, Tác
là phạm; Tác là trì, Chỉ là phạm” 

Tại
sao gọi Chỉ là trì? Trước hết, chúng tôi sẽ giải thích
ý nghĩa của bốn việc làm này. Thứ nhất chữ Chỉ có nghĩa
là dừng lại, còn chữ Trì có nghĩa là giữ lấy. Vậy trong
câu đầu có nghĩa là hãy dừng lại tất cả mọi việc làm
ác hại mình hại người không làm thì đó gọi là chỉ, khi
chúng ta dừng không làm các việc ác thì chính lúc đó
là lúc hành giả đang trì giữ giới mà mình đã thọ cho nên
dừng không làm ác được gọi là trì giới hay là giữ giới.
Thứ hai sao gọi Tác là Phạm? Ở đây Tác có nghĩa là làm,
là hành động, còn chữ Phạm có nghĩa là phạm vào giới
Phật đã cấm. Vậy trong câu thứ hai có nghĩa là hành giả
đã làm những việc, những giới điều Phật đã cấm không
cho làm: Như không cho sát sanhhành giả sát sinh, không cho
trộm cắphành giả trộm cắp … thì việc làm hay hành
động đó gọi là Phạm giới. Thứ ba sao gọi Tác là Trì?
ở đây chữ Tác có nghĩa là làm, hành động, tạo tác, còn
Trì là giữ lấy, giữ giới. Vậy câu thứ ba này có nghĩa
là khi hành giả đã làm việc hay tạo tác việc giữ giới,
không làm ác; tuy có vẻ tiêu cực nhưng thực chấtchúng
ta
đang trì giữ giới cấm, có nghĩa là chúng ta không làm
ác, chính lúc đó là lúc chúng ta đang tạo việc thiện rồi.
Đó là chúng ta nói theo mặc tiêu cực, còn nếu chúng ta nói
theo nghĩa tích cực thì không tạo ác mà chúng ta hành thiện.
Ở đây vì nhờ có không tạo ác nên chúng ta trở nên
trong sạch, mà khi chúng ta trở nên trong sạch chính là lúc
chúng ta đang trì giới vậy, cho nên gọi Tác là Trì là vậy.
Thứ tư sao gọi Chỉ là Phạm? Ở đây Chỉ cũng có nghĩa
là dừng lại, đình chỉ không tạo tác, còn Phạm có nghĩa
là phạm vào giới cấm. Nếu hành giả đình chỉ không làm:
trước là giữ giới, sau nữa là làm việc thiện lợi mình
lợi người mà không làm thì coi như phạm giới trong việc
chỉ ác hành thiện. Đó là ý nghĩa của bốn câu buộc hành
giả
phải tyho6ng hiểu một cách thấu đáo thì, việc trì
giới
chúng ta mới đưa đến thành công trong việc giải thoát
khổ mà đạt Niết-bàn an lạc được. 

Giới
nguyên
chỉ là những lời răn của đức Phật đối với các
đệ tử của Ngài, tùy theo thời, theo chỗ phạm của
đệ tử mà chế định ra những nguyên tắc khuyên răn. Khởi
đầu Ngài chỉ tuyên dạy là :”Các việc ác chớ làm …”
Nhưng sau đó do vì Tăng chúng dần đông và cuộc sống
vậy
trở nên phức tạp hơn, sản sinh ra những hành vi không
hợp với chánh pháp, nên theo đó giới mới bắt đầu được
Ngài chế ra theo sau những tạo tác phi pháp đó, mỗi ngày
mỗi tăng lên nhiều theo thời giaṇ, tùy thuộc vào những
tướng phạm đó mà chúng trở nên phức tạp hơn. Trong lúc
này giáo đoàn của đức Phật gồm có bảy chúng đệ tử,
theo đó giới cũng được tùy theo chỗ phạm và căn cơ của
họ mà tùy chế nên giới cũng được phân ra theo đó mà có
Giới của các bậc xuất gia, giới của các vị tại gia như
trong luật tạng ghi lại. Tuy là bảy chúng và tùy thuộc vào
đó mà Ngài chế nên có sự khác nhau về tướng trạng của
giới điều trên chi tiết, nhưng trên mặt đại thể thuộc
tánh giới thì cho dù xuất gia hay tại gia cũng đồng một,
chúng chỉ khác nhau trên mặt Giá giới mà thôi. Vì mục đích
của Giới là đưa hành giả đến chỗ giải thoát khổ đau
đạt an vui tịch tĩnh dù là xuất gia hay tại gia thì việc
thực hiện giới, cuối cùng cũng chỉ nhằm đến việc thanh
tịnh
hóa ba nghiệp tham sân si để đưa đến cứu cánh Niết-bàn
an lạc chung cuộc, nhanh hay chậm cũng tùy thuộc vào giới
tướng
chúng ta nhận lãnh và thọ trì có kết quả hay
không mà thôi. 

Căn
cứ vào
phần 1 Luật Tứ phần hành sự sao quyển trung nói
về thuyết pháp thì giới được phân ra làm bốn gồm có:
Giới pháp, Giới thể, Giới hànhGiới tướng. Ở đây
Giới pháp chỉ cho những điều giới được đức Đạo sư
chế định ra như không sát sinh, không trộm cắp v.v… tất
cả những giới dùng để ngăn cấm các pháp bất thiện đó
chúng làm cơ sở cho mọi quy củ cùng mọi giới hạn phòng
ngửa cho hành giả trong thực hành qua chỉ ác hành thiện,
trong đó chúng có cả Tiểu thừa giớiĐại thừa giới
riêng biệt. Giới thể chỉ cho cái thể của giới có được
sau khi hành giả thọ trì Giới pháp, sự có được này chúng
pháp
xuất từ những tác dụng của việc phòng ngừa tội
lỗi
cùng việc thực hành đình chỉ các việc ác không làm
nữa. Giới hành chỉ cho những hành vi động tác của ba nghiệp
thân khẩu ý chúng không chống trái với các pháp sau khi hành
giả
làm phát sinh được Giới thể. Giới tướng chỉ cho
tướng trạng của việc trì giới, tức là chỉ cho tình trạng
của việc trì giới hay phạm giới có được trong thực hành
của hành giả. Cũng theo luật Tứ Phần hành sự sao phần
1 quyển thượng thì, Bàn về Giới pháp tức là chúng ta bàn
về pháp ngữ, chúng không thuộc về phàm hay là Thánh, mà
chúng ta nói thắng rõ ràng về pháp này, thì chúng chính là
con đường xuất ly khiến cho người thọ trì tin, biết là
có nó. Bàn về Giới thể nếu dựa vào chỗ phát ra nghiệp
thể
mà luận một cách rõ ràng thì đó chính là sự hiển
bày
thẳng sự lãnh nạp của tướng tâm qua tác dụng yết
ma
xong và giá trị tác dụng vô biểu của sự trì giới được
thể hiện qua thân khẩu ý. Bàn về Giới hành chỉ cho khi
hành giả đã dụng tâm thọ trì giới xong, tất phải cần
phương tiện rộng tu, kiểm soát mọi hành vi oai nghi của thân
khẩu, trước chuyên tâm khắc chí tôn sùng hâm mộ các bậc
Thánh, sau khởi giữ tâm thuận nghĩa với trước gọi là giới
hành
. Bàn về Giới tướng chỉ cho hành tướng của mỗi oai
nghi
thành tựu, tùy theo sự việc mà thể hiện, mọi động
tác đều xứng hợp với pháp, đức tốt sáng hiện, gọi
giới tướng. Trong bốn loại này Giới tướng tuy là một
trong bốn loại, nhưng đồng thời cũng là tên chung của bốn
loại, cho nên bảo giới tướng có nhiều đường là vậy.
Vì khi còn tại thế đức Thế Tôn bao giờ cũng tùy thuộc
vào tướng phạm của các đệ tử để mà chế ra giới tướng
có nhiều có ít tùy thuộc vào các hàng đệ tử xuất gia
của Ngài mà chế ra và họ cũng căn cứ vào những giới tướng
này mà giùn giữ Giới

Theo
Luật Thập Tụng 11 Phật dạy thì, “Người trì giới,
không phạm vào những giới điều mà Phật đã chế, theo Đại
giới
dạy thì người trì giới phải biết oai nghi, biết lúc
nào nên hành xử, lúc nào không nên hành xử, cho đến phá
giới
nhỏ cũng sinh sợ hãi lớṇ
” Đó là những
điều kiện tối thiểu để cho hành giả biết rằng việc
trì giới không phải chỉ biết giới không thôi, hay chỉ biết
giới mình đã nhận lãnh là được rồi mà còn phải biết
thực hành, đem giới áp dụng vào cuộc sống qua nên iết
lúc nào nên hành xử và lúc nào không nên hành xử, như bốn
việc mà chúng tôi đã đề cập bên trên và, điều cốt yếu
của việc trì giớihành giả nếu lỡ phá đi một giới
cấm
nào cho dù là nhỏ, như phải coi đó như là một việc
trọng đại, chúng có thể phá đi toàn bộ con đường giải
thoát
của chính mình; hành giả phải nên đem lòng sợ hãi
để tránh khỏi phải lập lại việc đã vi phạm.

Theo
luận A-tỳ-đạt-ma Câu Xá 14 thì, Giới có khả năng
chinh phục nghiệp ác nên gọi là Thi-la, từ để giải thích
rõ ràngthanh lương, như nói với người thọ trì giói
thì tâm an vui, thân không nhiệt não, cho nên gọi là Thi-la.

Ở đây Thi-la có nghĩa là mát mẻ (thanh lương), có nghĩa là
luận này theo ý nghĩa ý nghĩa từ nhân qua quả theo nghĩa tiêu
cực
của chúng mà định nghĩa nhân và quả, nhận và quả
vì thế không ngoài nhau theo nghĩa tích cực.

Theo
luận Đại Trí độ 13, 25, 153 thì Thi-la có nghĩa là: “Làm
tốt đường lành, không tự mình buông lung, đó gọi là Thi-la.
Hoặc thọ giới hành thiện, hay không thọ giớihành thiện
đều gọi là Thi-la cả.
” Như vậy Theo luận Đại Trí
Độ thì việc có thọ giới hay không có thọ giới, nhưng
hành giả chỉ cần thực hành thiện hạnh thì cũng là Thi-la
Ba-la-mật
cả. Với luận Đại Trí độ cũng vậy giới được
đồng hóa theo nghĩa tích cực của chúng, có nghĩa là hành
vi
thiện, không buông lung theo ác pháp thì đó chính là Thi-la.
Đây đứng về mặt giá trị được đánh giá theo thời gian
ngay trong hiện tại khi hành giả làm thiện ngay lúc đó Thi-la
được thể hiện

Những
giá trị có được từ người giữ giới mang lại nếu thực
hành
giới từ việc đưa đến tươi mát an ổn cả thân và
tâm cho hành giả trong cuộc sống hiện tại qua việc thanh
tịnh
hóa ba nghiệp đưa đến thoát khổ đạt an vui Niết-bàn
như trê,n qua những bộ luật luận mà chúng tôi đã đưa ra,
chúng còn có những giá trị tùy thuộc vào người trì giới
tinh tấn hay không thì, theo đó chúng cũng có những giá
trị
dưa đến sự thành tựu mọi thứ công đức rất nhiều
như nhiều kinh luận đã thuật lại như: theo kinh Chánh Pháp
Niệm xứ 22 thì: “Người trì giới, thường được ba
thứ vui: Được khen ngợi, được tài vật, và sau khi mất
sinh Thiên … và nếu người thích trì giới thời sẽ đạt
đến
Niết-bàn
.” Hay theo luận Đại Trí Độ 13 thì: “Người
trì giới an lạc đầy đủ, nổi tiếng khắp nơi, Trời
người kính mến, hiện đời được nhiều khoái lạc, nếu
muốn lên Trời hay sinh làm người sẽ giàu sang sống lâu,
không bao giờ bị nạn.
” Cũng theo Đại Trí độ luận
thì nếu người trì giới thuộc hàng sơ sơ thì sẽ sinh làm
người, còn bậc trung thì sẽ sinh lên Trời Lục dục, bậc
thượng mà lại hành Tứ thiền, tứ không định sẽ sinh về
cõi Trời Sắc, Vô sắc thanh tịnh. Trì giới bậc thượng
có ba loại, trì giới hạ thanh tịnh thì đắc A-la-hán, trì
giới
trung thanh tịnh thì sẽ đạt được Bích-chi Phật, còn
trì giới thanh tịnh bậc thượng thì sẽ được Phật đạo.” 

Đó
là những giá trí đích thực dành cho người trì giới sẽ
đạt được trong hiện tại và trong tương lai cả vật chất
lẫn tinh thần đều mang lại cho hành giả những lợi lạc
khó có được nơi người không trì giới.

Về
Sàn-đề
Ba-la-mật
(ksānti-pāramitā), là phiên âm từ tiếng phạn
Ksānti-paramita, nghĩa là nhẫn, an nhẫn, nhẫn nại, nhẫn nhục;
là một chi trong Lục ba-la-mật, Thập ba-la-mật, có nghĩa là
những gì khiến cho tâm chúng ta an ổn, kham nhẫn trước mọi
não hại, mọi hủy nhục từ bên ngoài đưa đến và, cũng
chỉ cho những khổ não, thống khổ thuộc về cả thân, tâm
đều có khả năng kham nhẫn hết tất cả của con người
đều gọi là nhẫn nhục. Theo Du-già Sư địa luận 57 thì,
nhẫn nhục bao gồm cả ba loại hành tướng không phẫn nộ,
không kết oán và, tâm không ôm lòng ác ý. Phật giáo rất
đặt biệt chú trọng đến nhẫn nhục và, điều này luôn
thể hiện hàng đầu trong giáo lý Phật giáo Đại thừa dành
cho các hàng Bồ-tát khi thực hành hành nguyện của mình trong
việc tự lợi cùng lợi tha qua Lục Ba-la-mật. Tuy hai thừa
Thinh văn cùng Duyên giác cũng lấy nhẫn nhục trong pháp tu
tập
nhưng vì thuộc tính của chúng nhẫn chưa được nâng
cao
nên chì bó buộc trong phạm vi cá nhân là nhất trong khi
các hàng Bồ-tát lấy nhẫn nhục để thử thách bước đường
tu hành của mình trong lúc giao tiếp với tha nhân qua việc
lợi tha nên nhẫn nhục được đặt lên hàng đầu, vì vậy
cho nên sự khác biết của nó rất lớn. 

Theo
Thập tụng luật thì đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo đối
với các hàng cư sĩ tại gia đến giúp đỡ chúng Tăng thì
ngoài việ giảng dạy cho họ thông hiểu các pháp sâu xa phân
biệt
được chánh tà đạo cho họ mà Tỳ kheo còn phải giảng
dạy về phương pháp thực hành Bố thí, trì giới, nhẫn nhục
nữa: “Nếu các cư sĩ nào đến, thì nên vì họ mà nói
pháp thậm thâm, chỉ rõ đâu là chánh đạo, tà đạo. Nên
giảng về tri kiến thực hành bố thí, trì giới, và nhẫn
nhục
.”
Đó là bổn phận của các Tỳ-kheo đối với
các hàng cư sĩ tại gia phải phân biệt cho họ biết đường
nào chánh đưa đến giải thoát, đường nào tà đưa đến
khổ đau để tránh.

Theo
Kinh Trường A-hàm 21 đức Đạo sư đã kể lại hạnh tu nhẫn
nhục của chính Ngài khi còn là một Thiên đế Thích, đã
từng bị vua A-tu-la người bại trận trong cuộc chiến giữa
Chư thiên và A-tu-la mắng chửi khi đang còn bị trói. Cuộc
đàm thoại giữa Thiên đế và người hầu của Thiên đế.
Đại ý là vị hầu Thiên đế chê trách Thiên đế tại sao
không trả lời lại trước những lời lẽ hủy nhục mắng
chửi
của Vua A-tu-la: Trước hết là sợ, tự thể hiện sự
yếu kém của mình, sao lại phải nghe những lời ác; nay không
triệt hạ đứa ngu thì sau khó nhịn, hãy đánh nó bằng gậy
cho nó hối lỗi; hơn nữa Thiên vương im lặng vì sợ giảm
đức trí, nhưng họ đâu biết cho là vua sợ hãi, nên đối
đầu
liều chết xúc phạm, muốn vua Thiên đế lùi lại như
bò. Và chúng ta sẽ thấy được những gì mà vị Thiên đế
đã trả lời lạ cho người hầu qua những bài kệ như sau: 

“Ngu
kia không thấy biết, 
Bảo
ta lòng sợ hãi.

Ta
quán đệ nhất nghĩa
Nhịn
im là tối thượng.

Điều
xấu trong các xấu: 
Trong
sân lại nổi sân; 

trong sân không sân, 

chiến đấu tối thượng.

Con
người
có hai duyên, 

mình cũng vì người; 
Mọi
người
có tranh tụng, 
Ai
không tranh là thắng.

Con
người
có hai duyên, 

mình cũng vì người; 
Thấy
người không tranh tụng, 
Lại
cho là ngu đần.

Nếu
người có sức lớn, 
Nhịn
được người không sức; 
Sức
này là đệ nhất, 

tối thượng trong nhẫn.

Ngu
tự cho mình mạnh, 
Sức
này chẳng là sức; 
Người
mạnh nhẫn như pháp
Sức
này không ngăn được.

Phật
bảo
Tỳ-kheo: 

Lúc
bấy giờ, Thiên đế Thích há là người nào khác sao? Không
nên có ý nghĩ như vậy. Lúc ấy, Thiên đế Thích chính là
bản thân Ta vậy. Vào lúc bấy giờ, Ta tu tập nhẫn nhục,
không hành động nóng vội, thường thường khen ngợi người
hay nhẫn nhục. Nếu có người trí nào muốn hoằng dương
đạo của Ta, thì phải tu tập nhẫn nhục im lặng, chớ ôm
lòng phẫn hận đấu tranh.
( )” Theo đức Đạo sư
thì mọi sự đấu tranh đều phát xuất từ lòng phẫn
hận
và, để đối trị lại lòng phẫn hận hành giả
chúng ta phải dùng nhẫn nhục để nhổ tận gốc độc sân
hân mới mong làm trong sạch được ba nghiệp, ví nhẫn nhục
là một sức manh tối thượng không gì có thể ngăn được.
Đó là những kinh nghiệm tu tập hành nhẫn nhục của đức
Đạo sư khi cò là một chúng sanh ở cõi chư Thiên, Ngài đem
ra kể lại cho các Tỳ-kheo đệ tử của Ngài cùng nhấn mạnh
đế sức mạnh không gì ngăn cản được của hạnh nhẫn
nhục
.

Theo
Tăng Nhất A-hàm 44 Phât kể lại cho Tôn giả A-nan về những
kiếp xa xưa của đức Phật Tỳ-bà-thi thì, nhẫn nhục được
chư Phật coi như là một thứ sức mạnh tối ưu trong việc
giữ gìn thanh tịnh cuộc sống của chúng Tỳ-kheo trong vòng
một trăm năm đầu khi cấm giới chưa được chế ra vào lúc
bấy giờ:

Chín
mươi mốt kiếp có Phật xuất thế hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai,
Chí chân, Đẳng chánh giác. Bấy giờ có ba hội Thánh chúng
Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm một trăm mười sáu vạn
tám nghìn Tỳ kheo. Hội thứ hai, Thánh chúng gồm mười sáu
vạn. Hội thứ ba, Thánh chúng mười vạn. Thảy đều A-la-hán.
Phật thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Trong vòng một trăm năm,
Thánh chúng thanh tịnh. Đức Phật ấy lấy một bài kệ làm
cấm giới.

Nhẫn
nhục
là bậc nhất.


Phật
nói Vô vi nhất.


Không
vì cạo râu tóc


Sa-môn
mà hại người.

“Bấy
giờ, Đức Phật ấy chỉ nói một bài kệ này làm cấm giới
trong vòng một trăm năm. Khi cấu uế đã phát sanh mới lập
cấm giới.
”( ) 


đây sức mạnh của nhẫn nhục làm cuộc sống của chúng
Tăng
trở nên vô sự, vô sự là sự thể hiện thanh tịnh
của chúng Tăng trong cuộc sống. Đó là những thể hiện vượt
bực sức mạnh của lòng nhẫn nhục trong quá khứ của chính
Ngài và Thánh chúng của chư Phật trong quá khứ. Nhưng đây
chỉ là sự thể hiện theo giá trị của luật tắc nhân quả
của pháp nhẫn nhục theo hữu lậu pháp còn giới hạn trong
vòng
đối đãi nhau, chứ chưa phải là hạnh nhẫn nhục vướt
thoát của pháp nhẫn vô lậu giải thoát.

Theo
Giới Kinh Ưu-bà-tắc 7, trong phẩm Sàn-đề Ba-la-mật thì sở
hành của các hàng Nhị thừa về nhẫn nhục, tuy cũng là nhẫn
nhục
nhưng chẳng phải là Ba-la-mật, chỉ có sở hành các
hàng Bồ-tát mới được gọi là nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì
sở hành của các hàng Nhị thừa chủ yếu về tự lợi tích
cực
hơn là tiêu cực nên đặt nặng trong vấn đề nhân quả,
còn các hàng Bồ-tát mặt tích cực của họ là lợi tha đặt
ra nhiều hơn, nên cần phải vượt qua khỏi nhân quả để
hoàn thành Giác hành viên mãn, nên có nơi Ksānti-paramita còn
dịch là nhẫn độ

Theo
phẩm Lục an nhẫn Ba-la-mật-đa trong kinh Đại thừa lý thú
lục Ba-la-mật-đa 6 thì, dùng an nhẫn hành quán tất cả đều
không, mới gọi là an nhẫn Ba-la-mật, còn an nhẫn khác không
gọi là Ba-la-mật như an nhẫn phân biệt thiện ác của mình
người thông thường không gọi là an nhẫn mà gọi là nhẫn
nhục
theo nhân quả. Kinh Giải thâm Mật 4, phẩm Địa Ba-la-mật-đa
thì phân loại nhẫn nhục Ba-la-mật gồm có ba loại: Nại
oán hại nhẫn
(Chỉ khả năng nhẫn nhịn những điều oán
hại của kẻ khác đối với mình), An thọ khổ nhẫn (Có
khả năng nhẫn chịu mọi thứ khổ), Đế sát pháp nhẫn (có
khả năng quán sát xét thật các pháp). Ngoài ra trong Thập
Thiện
hạnh cũng có nhẫn nhục hạnh, chỉ cho khả năng nhẫn
nhịn tất cả mọi sự nhục nhã não hại mà không khởi lên
tâm sân hận lúc hành giả tu hành. Như kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật
1 thì, “Tâm không động cho nên đầy đủ Sàn-đề
Ba-la-mật.
” tức là khi hành giả đem tâm mình trụ vào
chân lý thì sẽ không bị người khác não hại, hay mọi sự
nhục mà làm cho động. 

Nhẫn
được phân ra làm nhiều loại: có hai như Sanh nhẫn cùng Pháp
nhẫn
; có ba như Nại oán hại nhẫn, An thọ khổ nhẫn, Đế
sát pháp nhẫn
; có bốn như Vô sanh pháp nhẫn, Vô diệt nhẫn,
Nhân duyên nhẫn, Vô trụ nhẫn; có năm như Phục nhẫn, Tín
nhẫn
, Thuận nhẫn, Vô sanh nhẫn, Tịch diệt nhẫn; có sáu
như Tín nhẫn, Pháp nhẫn, Tu nhẫn, Chánh nhẫn, Vô cấu nhẫn,
Nhất thiết trí nhẫn; có mười như Túy thuận âm thinh nhẫn,
Thuận nhẫn, Vô sanh pháp nhẫn, Như huyễn nhẫn, Như diễm
nhẫn, Như mộng nhẫn, Như hưởng nhẫn, Như điện nhẫn,
Như hóa nhẫn, Như hư không nhẫn. Đó là các loại nhẫn được
kinh điển phân ra làm nhiều loại và theo đó chúng khế hợp
với từng loại căn cơ đáp ứng được những cách đối
trị
đối với những trường hợp câu hữu với chính chúng.
Những định nghĩa theo từng thuộc tính, quan điểm thuộc
từng lớp căn cơ tu hành của các hành giả tu hạnh nhẫn
nhục
; sự khác biệt đó phải được nhận thức một các
rõ ràng khi người thực hành áp dụng vào tu tập mới mong
đạt kết quả theo sở hành của mình được.

– Về
Tỳ-lị-da
Ba-la-mật
(vīrya-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa,
phiên âm là Tinh tấn Ba-la-mật, hay Tinh tấn độ vô cực.
Vīrya người Trung quốn phiên âm là Tỳ-lị-da, hay Tỳ-ly-da
có nghĩa là siệng năng, tinh cần. Theo tiếng phạn thì động
từ căn √Vīr, có nghĩa là chiến thắng, hay đình chỉ, còn
tiếp vỹ ngữ “ya” được thêm vào do biến cách để
trở thành danh từ trung tính mang ý nghĩa là tự kiềm chế
mà siêng năng tu tập. Theo Trần Chân Đế thì khả năng diệt
trừ
lười biếng, và các pháp ác bất thiện gọi là “Tỳ-lị”;
thực hành không phóng dật làm tăng trưởng các pháp lành
gọi là “da”( ). Theo Đại thừa nghĩa Chương 12( ) thì, Tỳ-lị-da
có nghĩa là tinh tấṇ Pháp luyện tâm gọi là tinh; đạt tâm
tinh chuyên gọi là tấn. Tinh tấn là pháp căn bản trong
việc thực hành pháp tu của mọi người, nên trong pháp tu
cơ bản của Nguyên thỉ Phật giáo thì tinh tấn là một chi
tối quan trọng trong tám chi Thánh đạo và, trong pháp tu của
các nhà Bồ-tát hành Đại thừa cũng lấy tinh tấn làm hàng
đâu trong việc hành đạo của mình qua Lục ba-la-mật hay Thập
Ba-la-mật. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn tinh
tấn
, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Trước hết
về sự tinh cần của thân trong việc nổ lực siêng năng tu
tập
các pháp thiện trong lúc hành đạo như lễ bái, độc
tụng, giảng pháp và, làm trợ duyên khuyến khích hướng dẫn
cho mọi người thực hành các pháp thiện như bố thí, trì
giới
v.v… Sau đến tự tâm hành giả nổ lực tinh cần thực
hành
thiện đạo, tâm hành giả lúc nào cũng miên mật liên
tục
hướng đến đạo Niết-bàn trong mọi nổ lực tinh tấn
tu tập
nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, đánh tan mọi sự
giải đãi biếng nhác để làm tăng trưởng các thiện pháp
một cách nhanh chóng hơn trên bước đường giải thoát khổ
đau đạt an vui tịch diệt. Như vậy tinh tấn vốn là một
độ
rất ư là quan trong đối vối lục độ, hay thập độ
và, cũng là một pháp cơ bản quan trọng đứng đầu trong
sự thành tựu pháp tu của hành giả. Ở đây, cho dù pháp
tu tốt hay dễ đến độ nào đi chăng nữa; nhưng hành giả
thiếu tinh tấn nổ lực về thân và tâm thì pháp ấy cũng
trở thành vô giá trị đối với mọi người.

– Về
Hành tướng của tinh tấn tùy theo căn cơ và thuộc tính của
từng đối tượng tu, nên theo đó chúng có những sự sai khác
và không đồng nhau: Theo tâm sở thì gọi là siêng, tức chỉ
cho tâm dõng mãnh dứt ác hành thiện, các nhà Câu Xá cùng
Duy thức lấy tinh tấn làm một trong những pháp địa đại
thiện. Hoăc nó cùng với dục, tâm, tư duy hiệp thành bốn
như ý túc
. Hoặc nó cùng với tín, niệm, định, tuệ hiệp
lại thành năm căn năm lực. Hoặc nó cùng với dục, niệm,
xảo huệ, nhất tâm hiệp thành ngũ pháp. Hoặc nó là một
trong lục Ba-la-mật hành, hay thập ba-la-mật hành. Hoặc một
trong thất bồ-đề phần pháp. 

Theo
Đại trí độ luận 16 thì tinh tấn thuộc tâm số pháp, siêng
làm không trụ vào tướng, làm theo tâm cùng với tâm sanh khởi.
Theo A-tỳ-đàm thì hoặc có giác có quán, hoặc không giác
mà có quán, hoặc không giác không quán. Trong tất cả các
pháp thiện thì siệng năng tu tập không biếng nhác thì gọi
là tướng tinh tấn. Trong năm căn, thì tinh tấn gọi là tinh
tấn căn
, nếu căn này tăng trưởng thì gọi là tinh tấn lực,
tâm có khả năng khai ngộ thì gọi là tinh tấn giác, trường
hợp
có khả năng đưa đến thành Niết-bàn Phật đạo thì
gọi là chánh tinh tấn. Trong tứ niệm xứ thường hay liên
hệ
với tâm thuộc tinh tấn phần, trong tứ chánh cần
tinh tấn môn, trong tứ như ý túc thì dục tinh tấn chính
tinh tấn, trong lục ba-la-mật gọi là tinh tấn Ba-la-mật.
Vì tính quan trọng và cần thiết của tinh tấn trong việc
hoàn thành những pháp tu cho mọi hành giả nên tinh tấn trở
thành
như là hiện hữu trong mọi pháp tu đối trị mọi căn
bệnh vậy và, theo đó cũng tùy thuộc vào từng chức năng
mà mang ý nghĩa của chính chúng trong năm thừa: Nhơn, Thiên,
Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát.

– Về
chủng loại thì cũng được phân ra làm nhiều chủng loại
cho phù hợp với thuộc tính của từng loại căn cơ mà đức
Đạo sư phân chia theo đối tượng đối trị đó, do đó chúng
cũng thuộc loại đa dạng, theo theo Đại Thừa Trang Nghiêm
kinh luận
8 thì tinh tấn có sáu loại: 

Một,
Tinh tấn tăng giảm (hāniviṛddhi-vīrya): có trong Tứ chánh
cần
, dùng để giảm từ từ hai pháp ác và, cũng làm tăng
dần hai pháp thiện.

Hai,
tinh tấn tăng thượng (mokṣāddhipa-vīrya): có trong ngũ căn,
làm nghĩa tăng thượng đối pháp giải thoát.

Ba,
tinh tấn xả chướng (pakṣavipakṣa-vīrya): có trong ngũ lục,
cho dù có bất cứ chướng ngại nào cũng không thể ngăn cản
được.

Bốn,
tinh tấn nhập chơn (praviṣta-vīrya): có trong Thất giác chi,
để thành lập kiến đạo.

Năm,
tinh tấn chuyển y (parivartaka-vīrya): ở trong tám chi Thánh đạo,
là nhân chuyển y đưa đến cứu cánh lúc tu đạo.

Sáu,
tinh tấn đại lợi (mahārtha-vīrya): ở trong lục Ba-la-mật,
làm lợi cho tự mình và làm lợi cho người khác.

Chính
vì sự hiện hữu cần thiết của tinh tấn trong mọi pháp
tu nên tinh tấn cũng trở nên đa dạng và, có nhiều thuyết
về tinh tấn: Theo Đại trang nghiêm thừa kinh luận 8 thì căn
cứ vào
căn cơ và pháp tu của người ba thừa mà đức Đạo
phân ra làm ba phẩm năm loại tinh tấn riêng biệt: Tinh
Văn, Duyên Giác và Bồ-tát cho phù hợp với kết quả mà họ
nhận được sau khi tu tập. Năm loại đó là: 

Một,
tinh tấn hoằng thệ (samnāha-vīrya), là muốn phát khởi thực
hành
.

Hai,
tinh tấn phát hành (prayoga-vīrya), đang thực hành các pháp
thiện
trong hiện tại.

Ba,
tinh tấn Vô hạ (alīna-vīrya), sẽ được kết quả lớn chứ
không phải nhỏ nhặt.

Bốn,
tinh tấn bất động (akṣobhya-vīrya), tức là những nỗi khổ
của lạnh nóng v.v… khong làm hành giả lay động.

Năm,
tinh tấn vô yểm (asaṃtuṣṭi-vīrya) không vì được kết
quả chút ít mà cho là đủ.

Theo
Đại phương quảng Thập luân kinh 8, trong Tinh tấn tướng
phẩm thì tinh tấn chia ra làm hai loại: Thế gianxuất thế
gian
tinh tấn khác nhau. Như Kinh Ưu-bà-tắc giới 7 dạy thì,
tinh
tấn
của Bồ-tát xuất gia không khó bằng tinh tấn của Bồ-tát
tại gia, vì Bồ-tát tại gia do vì kề cận với nhiều nhân
duyên
ác trói bộc nên rất khó tu trong việc thực hành siêng
năng tinh tấṇ. Theo Đại Trí Độ luận 16 thì, đề cập
rất rộng và nhiều về tinh tấn cả thân và tâm trong
việc thực hành, nhưng hai việ này khác xa nhau. Theo kinh Giải
thâm mật
4 trong phẩm Địa ba-la-mật-đa thì, tinh tấn
có ba loại: Bị giáp tinh tấn, tinh tấn gia hành chuyển sanh
thiện pháp, tinh tấn gia hành nhiêu ích hữu tình. Theo Đại
thừa
A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận 12 thì cũng có ba loại
tinh tấn: Bị giáp, phương tiện và, nhiêu ích hữu tình; còn
Thành Duy thức luận 9 thì, Bị giáp, nhiếp thiện, và lợi
lạc
tinh tấn. Ở đây tinh tấn bị giáp là chỉ cho sự phát
tâm
đại thề nguyện dõng mãnh cho việc thực hành tự lợi
lợi tha từ kiếp này sang kiếp khác thề không thối chuyển
trong việc hoàn thành sự ngiệp giải thoát của mình; lúc
khởi lên tâm niệm như vậy cũng giống như mặc áo giáp sắt
xông trận vậy, có oai lực lớn vậy. Tinh tấn nhiếp thiện
là chỉ cho việc tinh tấn tu tậpthực hành các pháp thiện.
Tinh tấn lợi lạc, là chỉ cho vì việc lợi ích của tất
cả chúng sanhtinh tấn không biếng nhác. Theo Nhiếp đại
thừa luận
quyển trung, Trần Chân Đế dịch thì,tinh tấn
chia ra làm ba phẩm loại: tinh tấn cần dõng, tinh tấn gia hành,
tinh tấn bất hạ nan hoại vô túc (tinh tấn vô khiếp nhược,
thối chuyển, vô hí túc)

Theo
Hoa Nghiêm kinh 24 thì phân làm mười loại tinh tấn: Bất chuyển,
bất xả, bất nhiễm, bất hoại, bất yểm quyện, quảng đại,
vô biên, mãnh lợi, vô đẳng đẳng, cứu nhất thiết chúng
sanh
và, nói về Bồ tát khi tu tập tinh tấn như vậy
thì
tâm trở nên ngay thẳng thanh tịnh, không mất tâm sâu
xa
, tin hiểu rõ ràng sắc bén, căn lành thêm lớn, xa lìa thế
gian
, bất tín cấu uế đều trừ sạch hếṭ. Ngoài ra, theo
Du-già Sư địa luận 42, phẩm tinh tấn thì, chia ra làm 9 loại:
Một, tinh tấn tự tánh. Hai, tinh tấn nhất thiết (có hai loại:
tại giaxuất gia. hai loại này, mỗi loại có ba: hoằng
thệ
, nhiếp thiện, nhiêu ích). Ba, tinh tấn nan hành (có ba
loại tinh tấn khó thực hành: tinh tấn Không gián đoạn, tinh
tấn
không tưởng đến y thực, giường nằm, thân mình, tinh
tấn
thường tu pháp lành). Bốn, tinh tấn nhất thiết môn
(có bốn loại: lìa bỏ pháp nhiễm ô, sinh pháp bạch tịnh,
trừ sạch ba nghiệp, tăng ích trí tuệ). Năm, tinh tấn thiện
nhơn (có năm loại: không có gì để vất bỏ, không thối
giảm, không theo hạ liệt, không điên đảo, siêng năng dõng
mãnh gia hành). Sáu, tinh tấn nhất thiết chủng (có hai loại:
Lục chủng và thất chủng. Luc chủng: vô gián, ân trọng,
đẳng lưu, gia hành, bất động, vô hí túc tinh tấn. Thất
chủng: câu hành với dục, bình đẳng tương ưng, thắng tiến,
cần cầu, tu học, lợi tha, khéo giữ tinh tấn). Bảy, trừ
phiền não
tinh tấn. Tám, đời này đời sau vui tinh tấn. Chín,
thanh tịnh tinh tấn (có mười loại tinh tấn: Tùy thuận, tu
tập
, chuyên tinh, thiện nhiếp, tùy thời tu tập tương ưng,
thông đạt các tướng tương ưng, không thối lui yếu, không
hoại, bình đẳng,hồi hướng đại Bồ-đề). 

Tất
cả những hành tướng và chủng loại trên của tinh tấn,
chúng tôi chỉ nêu ra một số ít trong kinh luận để cho hành
giả
biết rằng trong tu tập của chúng ta, việc siêng năng
tinh tấn là một điều kiện cần thiết và hàng đầu buộc
phải có trong việc thực hành; nếu trong tu tậpchúng ta
biếng nhác không chịu khó chịu khổ để thực hành pháp
tu thì cho dù pháp tu đó dễ dàng đến đâu hay, phương pháp
hay đến đâu đi nữa mà chúng ta không chịu nổ lực tinh
tấn
để thực hành thì kết qua sẽ không bao giờ đến với
chúng ta. Pháp của đức Đạo sư là đến để thực hành
chứ không phải đến để biết. Đó là điều kiện tiên
quyết
cho mọi hành giả muốn đạt được kết quả trong
hiện tại hay trong tương lai xa hơn dù là Đại hay Tiểu cũng
vậy.

– Về
Thiền-na
Ba-la-mật
(dhyāna-pāramitā), còn gọi là Thiền định ba-la-mật
hoặc, Tịnh lự Ba-la-mật, Thiền độ Ba-la-mật. Ở đây có
thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn hay sự hoàn thành của
Thiền định; chỉ cho tịnh lự tu tập hiện pháp lạc trú,
dẫn đến thần thông, nhiêu ích hữu tình, có khả năng điều
hòa đối trị loạn ý và khả năng nhiếp giữ chánh ý bên
trong, đưa đến bến bờ giải thoát, an vui cuối cùng trong
quá trình tu tập thực hiện bồ-tát hạnh của hành giả.

Thiền
là từ lược củaThiền-na (dhyāna) còn dịch là tư duy tu,
hay tịnh lự. Tư duy tu có nghĩa là tư duy về đối cảnh mà
chúng ta đang để tâm vào mà nghiên cứu tu tập và, dùng tâm
thể tịch tĩnh tịnh lự để xét về nghĩa tư duy suy nghĩ
đó.

Định
được dịch nghĩa từ chữ Samādhi Trung Hoa phiên âm là
Tam-ma-địa, Tam-mội hay Tam-ma-đề, có nghĩa là chánh thọ,
chánh địnhđịnh tâm dừng vào một cảnh xa lìa mọi
vọng động.

Vậy
Thiền có nghĩa là một lòng khảo sát nghiên cứu về một
vật nào đó tức là Thiền, còn nhớ nghĩ về một cảnh vắng
lặng
nào đó gọi là định. Sự khác biệt giữa Thiền và
Định chỉ được dùng để nói đến nghĩa rộng chỉ cho
Định và, nghĩa hẹp chỉ cho Thiền mà thôi. Bỡi vì sự
duy
xét nghĩ của Thiền-na, tự nó đã có cái nghĩa của đình
chỉ
tịch tĩnh rồi cho nên cũng gọi nó là Định; nhưng trong
Tam-muội (chánh định) lại không có nghĩa xét nghĩ tư duy,
nên mới gọi là Thiền. Trong Thiền tối sơ khi Phật còn tại
thế
thì Thiền không chỉ làm căn bản cho các định mà còn
phát ra những sức mạnh chung cho thiên nhãnthiên nhĩ nữa,
tất cả đều nương vào Thiền này. Hơn nữa, trong Thiền
có cả những tác dụng của suy xétquán niệm chân lý,
cho nên người học đạo thường lấy Thiền làm khởi đầu
tối yếu trong việc thực hành. Tuy nhiên do tính chất trong
Thiền đã có định và trong định không có Thiền nên Định
được phân ra làm ba loại: Vị Định, Tịnh định, vô lậu
định
. Vị định (chưa có định) là lúc nó cùng với phiền
não
tham tương ưng mà khởi, yêu đắm đối với định. Tịnh
định là cùng với tâm thiện hữu lậu tương ưng mà khởi.
Vô lậu định, là bậc trí nương vào định mà đạt được
trí vô lậu

Theo
Luận Đốn ngộ nhập đạo yếu môn quyển thượng: “Hỏi:
Sao gọi là Thiền? Sao gọi là Định?
” Đáp: “ Vọng
niệm
không sinh là Thiền, ngồi thấy bản tánh là Định.
Bản tính tức là tâm không sinh. Định là đối cảnh không
tâm
, tám ngọn gió không thể lay động. Tám ngọn gió là:
hơn, kém, khen, chê, ca ngợi, trách, khổ, vui, đó gọi là tám
ngọn gió
. Người nào nếu được định như vậy thì, dù
phàm phu cũng nhập vào địa vị của Phật.
Ngoài
ra
thường Thiền định được dùng cùng một nghĩa để chỉ
cho tâm vật bất động đều gọi là tam-muội cả. Như Trí
Độ luận
5 “Khéo trụ tâm vào một chỗ bất động,
đó gọi là Tam-muội.
” hay cũng trong Trí Độ luận
28 thì: “Tất cả Thiền định đều gọi là Định hay
tam-muội. Ngoài tứ Thiền ra, các Định khác cũng gọi là
Định, cũng gọi là Tam-muội, mà không gọi là Thiền
.” 

Về
tên gọi thì Định có rất nhiều tên gọi khác nhau tùy thuộc
vào người đọc mà có được phiên âm để phù hợp với
đối cơ mà gọi tên trong khi phiên âm. Theo luận Câu Xá Quang
6 thì có ba tên: Tam-ma-địa (samādhi), Tam-ma Bát-để (samā-patti),
Ta-ma-di-đa (samāhita). Theo Duy Thức Liễu nghĩa đăng 7 thì có
năm tên gọi: (1). Tam-ma-di-đa (samāhita) là Đẳng dẫn. (2).
Tam-ma-địa hay ta-muội (Samādhi) là Đẳng trì. (3). Ta-ma Bát-để
(samā-patti) là Đẳng chí. (4). Đà-na-diễn-na, Thiền-na (dhyāna)
Tịnh lự. (5). Chất-đa-hê-ca A-yết-la-ca (cittaikāgratā)
Nhất tâm cảnh tánh. (6). Xà-ma-tha (śamatha) là Chỉ. (7).
Hiện pháp lạc trú (dṛiṣṭadharma-sukhavihara). Theo Pháp
Giới
Thứ Đệ, quyển hạ thì, Thiền có thế gian Thiền
xuất thế gian Thiền. Thiền thế gian là thiền của các hàng
phàm phu thực hành, tức căn bản là lấy tứ Thiền, tứ vô
lượng tâm
, tứ vô sắc Định làm căn bản. Trong khi Thiền
xuất thế gian có hai loại: (1). Xuất thế gian Thiền, hay là
nhị thừa cộng Thiền, chỉ cho Lục Diệu môn, Thập lục
đặc thắng
, Thông minh, Cửu tưởng, Thập tưởng, Bát-bối-xả,
Bát thắng xứ, Thập nhứt thiết xứ, Luyện thiền, Tứ thập
biến hóa, Nguyện trí, Đảnh thiền, Vô tránh tam-muội, Tam
tam-muội
, Sư tử phấn tấn, Siêu việt tam-muội, Tam minh, Lục
thông
thiền v.v… (2). Xuất thế gian thượng thượng thiền,
hay là bất cộng thiền, như Tự tánh đẳng tứ chủng đại
thiền, Thủ lăng nghiêm đẳng bách bát tam-muội, Chư Phật
bất động
đẳng bách nhị thập tam-muội. 

Tuy
Thiền Định đều phát xuất từ đức của tâm, song tâm của
dục giới không có đức này (chỉ có được khi chúng ta tu
tập
), mà chúng thuộc về tâm đức của sắc giới
sắc giới
. Đứng về mặc tương đối của sắc và vô sắc
thì Thiền là pháp của sắc giới, Định là pháp của
sắc giới
và, tự chúng có bốn cấp bậc cạn sâu khác nhau,
nên chúng ta thường nghe có tứ Thiền, tứ Định. Tứ Thiền,
tứ Định này là pháp thế gian chung cho Phật pháp, ngoại
đạo
, phàm thánh cùng tu tập, ngoài Định thế gian này ra
còn có Định xuất thế gian của Phật, Bồ-tát, A-la-hán chứng
đắc
, đó là các Định vô lậu nhờ tu tập mà có được,
cho nên muốn đạt được Thiền thì phải xa lìa phiền não
dục giới. Muốn đạt được Định thì phải đoạn trừ
phiền não
dục giới và, muốn đạt được các Định
lậu
thì phải đoạn tuyệt phiền não vô sắc giới. Vì chúng
ta
hành giả của dục giới nên muốn đạt được Thiền
định
này bắt buộc chúng ta phải nổ lực tu tập
thôi. Theo tông Câu xá thì định này được chia ra là hai phần:
Hữu tâm định và Vô tâm định. Hữu tâm định gồm có bốn
Tịnh lự và bốn vô sắc định, Tâm định này có được
là nhờ tu tập đoạn trừ dần dần các phiền não hạ địa
trong mười địa của các nhà Câu Xá tông, nhờ đó mà sinh
ra sắc giới bốn tịnh lự thiên và bốn vô sắc giới thiên
định
này. Vô tâm định gồm có vô tưởng địnhDiệt
tận định
. Vô tưởng định chỉ cho trạng thái vô tưởng
mà các phàm phu cùng ngoại đạo tưởng lầm và cho rằng đây
trạng thái chân Niết-bàn để cho họ tu tập và mong đạt
đến
. Diệt tân định, chỉ cho cảnh giới tịch tĩnh vô dư
Niết-bàn mà các bậc Thánh tu tập đạt được định. Ngoài
ra
giai đoạn trung gian cận phân định của sơ tịnh lự
nhị tịnh lự được gọi là trung gian định; nếu hành giả
nào tu tập định này sẽ được sinh về Đại Phạm thiên.
Đây là hai loại định có được nhờ vào sự tu tập của
hành giả dành cho cõi dục mà chúng ta đang cư ngụ, chứ không
phải sinh ra đã có rồi như là cõi sắc và vô sắc.

Vậy
Thiền là tên gọi tắc của Thiền-na được phiên âm từ
chữ Phạn dhyāna có nghĩa là tịnh lự cùng với nghĩa “Định”
của Tam-ma-địa được phiên âm từ samādhi chữ Phạn họp
lại mà gọi là Thiền định. Thông thường tinh thần chúng
ta
không ổn định hoàn toan, lúc thế này lúc thế khác, luôn
thay đổi theo các duyên bên ngoài và bên trong ý nghĩ nên chúng
ta
không làm chủ được tâm lý ổn định của mình nên mọi
rắc rối phức tạp luôn vây khốn chúng ta là cho chúng ta
luôn luôn cảm thấy bất ổn trước cuộc sống, nên để
kiểm soát cuộc sống của chúng ta trở nên an ổnan lạc
phát sinh thì hành giả chúng ta, nhất là các hàng Bồ-tát
trong lúc thực hành con đường Bồ-tát của mình thì, Thiền
định
con đường đi đến tối ưu, dành cho chúng ta trong
sự nghiệp tự độ và độ tha, lợi mình lợi người đưa
đến an vui giải thoát, mà đức Đạo sư đã từng dạy: “Chế
tâm nhứt xứ, vô sự bất biện
”. (Để tâm vào một
chỗ, không việc gì là không làm được). 

Vậy
muốn khống chế tâm cảnh dao động, nhiễu loạn của chúng
ta
khi tiếp xúc với mọi hoàn cảnh chung quanh, khi chúng ta
chưa làm chủ được chính mình thì điều cốt yếu là phải
dùng Thiền định làm một phương pháp đối trị lại những
nhiễu loạn dao động trước mọi hoàn cảnh bằng cách kéo
tâm mình trụ vào một đối tượng duy nhất thì, mọi sự
dao động nhiễu loạn bất ổn của ngoại cảnhtự tâm
sẽ tự biến mất và mọi sự an ổn ổn sẽ tự hiện hữu;
cho nên gọi “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện
là vậy. Khi chúng ta đem tâm mình tập trung vào một đối
tượng duy nhất thì, ngay lúc đó tâm chúng ta cắt đứt hết
đối các duyên liên hệ khác bên trong hoặc bên ngoài, lúc
này tâm chúng ta chỉ có một đối tượng duy nhất, trong thiền
học
gọi đó là “nhất tâm tánh cảnh” , chính là cảnh
giới
thiền định được hình thành. Cảnh giới này nếu
chúng ta huân tập nhiều chừng nào thì lực của tâm định
mạnh chừng đó và, cứ như thế chúng ta tiến lên sẽ đạt
được
trạng tháiTâm vật nhất như” là thành
tựu
được Thiền đinh và, trí tuệ phát sinh cũng là nhờ
vào sức mạnh của tâm định này. 


đây trí tuệhậu quả tất yếu có được từ Thiền
định
, nên người nào có công phu thiền định thì người
đó sẽ tập trung bảo trì được lực lượng trí tuệ càng
ngày càng sáng hơn và, khi chúng ta gặp phải bất cứ cảnh
ngộ
nào đi nữa cũng điều hòa ngay vào cảnh đó một cách
tự nhiên, để sau đó đưa đến giải thoát hết mọi hoàn
cảnh
có thể làm bất ổn cho hành giả. Đây là lúc chúng
ta
làm chủ được tâm mình, vô công dụng đạo hiện bày,
việc độ ta độ người, lợi ta lợi người sẽ được thành
tựu
viên mãn. Đối với Thiền định nhiều người hiểu
lầm
rằng ngồi Thiền sẽ đưa đến thân khô, tâm lạnh như
gỗ đá bên vực sâu, nhức đầu ù tai, sinh ra điên loạn
v.v… Họ không biết rằng việc tu thiền định tiêu cực
như vậy của họ là do không đúng phương pháp, không người
hướng dẫn nên đi sai đường, hoặc dụng tâm không đúng,
điều thân, điều tức không thông, do vậy nên từ đó sinh
ra những trở ngại. Đối Thiền định nếu hành giả nào
đi đúng đường có người hướng dẫn đúng thì những hiện
tượng
tiêu cực đó sẽ không bao giời xảy ra và, sẽ thành
tựu
được mọi kết quả như hành giả mong muốn.

Tóm
lại
, Thiền-na Ba-la-mật là một trong Lục ba-la-mật nên mục
tiêu
hướng đến của Thiền định Ba-la-mật là dành cho các
hàng Bồ-tát. Ở đây tuy cũng là Thiền định hết nhưng Thiền
định
của các nhà Tiểu thừa được giới hạn trong ba học,
cũng chỉ có giá trị thực tiễn trong tự lợi mà thôi, còn
đối với các hàng Bồ-tát không những có giá trị trong tự
lợi
mà còn mang đến lợi tha cho người nữa. Đó chính là
sự khác biệt giữa Bồ-tát và Thinh văn là như vậy, nên
trong cùng Thiền định, nhưng chúng cũng tùy thuộc vào thuộc
tính của người hành trì, nên vấn đề sai biệt đó phải
có, để phù hợp với căn cơ.

– Về
Bát
Nhã
Ba-la-mật
(prajñā-pāramitā), người Trung quốc dịch
nghĩa, phiên âm trí tuệ Ba-la-mật, hay Minh độ vô cực. Cũng
có thể dịch là tuyệt đối, trí tuệ hoàn toàn, hoàn thành
trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng
nghĩa
, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si,
biết rõ thật tướng các pháp hiện hữubiến dịch, hoặc
gọi là tuệ Ba-la-mật, thắng nghĩa Ba-la-mật; là một trong
lục Ba-la-mật, một trong thập Ba-la-mật dùng để quán chiếu
thật tướng các pháp, là cùng cực tuệ lớn của Bồ-tát.
Như Kinh Đại phẩm Bát-nhã 14, Phẩm Phật mẫu (Đ.8, tr. 323b)
đức Đạo sư dạy: 

Trí
tuệ
sâu xa qua bờ bên kia này, hay sinh ra chư Phật, hay cùng
nhất thiết trí chư Phật có khả năng thị hiện tướng thế
gian
, vì vậy nên chư Phật thường dùng Phật nhãn quán xét
trí tuệ sâu xa qua bờ bên kia này và, dùng trí tuệ qua bờ
bên kia
này thường sinh ra Thiền-na Ba-la-mật cho đến Đàn-na
Ba-la-mật
, sinh ra nội không, cho đến không của vô pháp cùng
hữu pháp, sinh ra Tứ niệm xứ, cho đến tám phần Thánh đạo,
sinh ra thập lực Phật, cho đến nhất thiết chủng trí. Cũng
vậy, Bát-nhã Ba-la-mật thường sinh ra Tu-đà-hòan, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán, Bích Chi Phật. Tu-bồ-đề! Những gì chư
Phật đã sở hữu về A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, nay
được, sẽ được đều nhờ vào nhân duyên Bát-nhã Ba-la-mật
nên có được.” Và chỗ khác đức Đạo sư dạy: “Bát-nhã
tức chỉ cho trí tuệ, Thinh Văn Duyên Giác cũng đạt được
trí tuệ, song Thinh Văn Duyên Giác chỉ cầu đều mau tiến
đến Niết-bàn, chứ không cầu trí tuệ rốt ráo, cho nên
chưa có thể được Ba-la-mật. Chỉ có Bổ-tát mới cầu nhất
thiết trí
đến bờ bên kia, cho nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật
đầy đủ.
” 

Qua
Những lời dạy của đức Đạo sư cho chúng ta biết rằng
Trí tuệ thì ai cũng có thể đạt được hết, đây chính
trí tuệ của hậu đắc trí có được từ sự phát sinh
của tu tập. Tuệ này nếu chúng ta không thực hành qua tu tập
thì sẽ khơng bao giờ có được; nhưng đối với căn bản
trí
trí tuệ bản giác chân thật từ xưa đến nay ai cũng
có, chúng thuộc loại trí bất sinh bất diệt, bất tăng bất
giảm
. Theo nghĩa tuyệt đối thì chính chúng hay sinh ra Thiền-na
Ba-la-mật
cho đến Đàn-na Ba-la-mật, sinh ra nội không, cho
đến
không của vô pháp cùng hữu pháp, sinh ra Tứ niệm xứ,
cho đến tám phần Thánh đạo, sinh ra thập lực Phật, cho
đến
nhất thiết chủng trí. Cũng vậy, Bát-nhã Ba-la-mật
thường sinh ra Tu-đà-hòan, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích
Chi Phật
. Tu-bồ-đề! Những gì chư Phật đã sở hữu về
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, nay được, sẽ được đều
nhờ vào nhân duyên Bát-nhã Ba-la-mật nên có được này. Vì
mỗi hữu tình chúng sinh được sinh ra vốn đã mang trong người
một nghiệp thức di truyền từ vô lượng kiếp, cộng vào
hiện thức đang huân tập từ trong cuộc sống hiện tại qua
tác nhân của thân miệng và í trong hiện tại huân tập tạo
ra cho chúng ta một tập khí làm nhân nghiệp mới, cả hai hiện
tại
cho chúng ta một loại nhận thức hữu lậu thế gian chúng
câu hữu với vô minh nên chưa được gọi là Bát-nhã Ba-la-mật

Như
Luận Đại Trí Độ 43 (Đ. 25, tr. 371a) dạy thì, :”Người
phàm phu tuy lại ly dục, mà có tâm ta, người đắm vào pháp
ly dục, nên không thích Bát-nhã Ba-la-mật. Thinh Văn, Bích Chi
Phật
dù có thích muốn Bát-nhã Ba-la-mật, nhưng vì từ bi
không thâm sâu, nên rất chán thế gian, một lòng hướng tới
Niết-bàn, cho nên Bát-nhả Ba-la-mật không thể đầy đủ
được. Bát-nhã Ba-la-mật này lúc Bồ-tát thành Phật thì
chuyển thành Nhất thiết chủng trí, vì vậy cho nên Bát-nhã
Ba-la-mật
cũng không thuộc của Phật, cũng không thuộc của
Thinh Văn, Bích Chi Phật, không thuộc phàm phu, chỉ có dành
cho Bồ-tát mà thôi.
” 

Những
gì đức Đạo sư dạy trong luận Đại Trí Độ cho chúng ta
biết rằng Bát-nhã thì ai cũng có, ai cũng muốn thực hành
nhưng độ thâm tín của nó còn tùy thuộc vào sự sâu dày
của nó và luôn tùy thuộc vào thuộc tính căn cơ, do đó ở
đây chúng chỉ dành riêng cho các hàng Bồ-tát trong chức năng
thực thỉ Bồ-tát hạnh mà thôi. Cũng như Kinh Ưu-bà-tắc
giới 7, phẩm Bát-nhã Ba-la-mật dạy: “Trí tuệ phi Ba-la-mật,
là chỉ cho tất cả những trí tuệ thế gian, những sở hành
trí tuệ của Thinh Văn, Duyên Giác. Ba-la-mật phi trí tuệ,
ở đây không có nghĩa này. Trí tuệ là Ba-la-mật, là chỉ
cho tất cả lục Ba-la-mật. Phi trí tuệ phi Ba-la-mật, là chỉ
cho tất cả Bố thí, Trì giới, Tinh tấn
.” Và để làm
sáng tỏrõ ràng hơn về Bát-nhã Ba-la-mật cũng theo luận
Đại Trí Độ 18 (Đ. 25, tr. 190a) thì, :”Chư Bồ-tát từ
lúc bắt đầu phát tâm cầu Nhất thiết chủng trí thì trong
thời gian này biết hết thật tướng của các pháp, Tuệ là
Bát-nhã Ba-la-mật. Hỏi: ‘Nếu như vậy thì không nên gọi
là Ba-la-mật. Vì sao? Vì chưa đạt đến trí tuệ rốt ráo!’
Đáp: ‘Chỗ đạt được trí tuệ của Phật là thật Ba-la-mật,
và nhân Ba-la-mật này nên sở hành của Bồ-tát cũng gọi
là Ba-la-mật, trong nhân nói quả. Bát-nhã Ba-la-mật ở trong
tâm Phật đã biến thành Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát hành
trí tuệ là cầu qua bờ kia cho nên gọi là Ba-la-mật. Phật
đã qua bờ kia rồi, nên gọi là Nhất thiết chủng trí’
.” 


đây vì nhận thức theo thuộc tính của pháp hành trì tương
đối
nên chúng tùy thuộc đối tượng hành trì đã đạt
được
hay chưa đạt được qua bờ bên kia. Nếu đạt được
qua bờ bên kia rồi thì, lúc này không còn là Bát-nhã Ba-la-mật
nữa mà là Nhất thiết chủng trí và, chỉ khi nào chưa đạt
được
đến bờ bên kia, có nghĩa là còn trong thời gian thực
hành
, chúng tùy thuộc vào thời gian thì chính nó là Trí tuệ
qua bờ kia (Bát-nhã Ba-la-mật). Nhưng dù là tương đối hay
tuyệt đốinhận thức về trí tuệ thì nhân và quả chúng
cũng phải tùy thuộc vào nhau mà hiện hữu: “Cái này có
thì cái kia có, cái này không thì cái kia không; cái này sinh
thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt …” Theo luật
tắc nhân quả Duyên khởi thì Nhất thiết chủng trí cũng
chính là Bát-nhã Ba-la-mật và, Bát-nhã Ba-la-mật cũng chính
Nhất thiết chủng trí. Vì ở đây chúng lệ thuộc vào
thời gian để qua bờ kia, do đó chúng cũng lệ thuộc vào
pháp tu tương đối, nên giữa trí tuệ thế gian hữu lậu
với trí tuệ xuất thế gian vô lậu chúng trở nên sai biệt
đa thù tùy thuộc vào căn cơ nhận thức của các loài hữu
tình
chúng sanh mà mà theo đó có những ‎nghĩa và tên gọi
khác nhau. 

Nếu
chúng ta đứng về mặt tương đốinhận thức thì giữa
trí tuệ thế gianxuất thế gian trên tên gọi và nhận
thức
về sự thật chân lí thì không khác chúng cùng một
dạng, dù rằng trí tuệ trong Phật pháp vượt thóat và cao
sâu hơn. ‎Những gì đức Phật đã dạy về trí tuệ
cho chúng ta nhận thức về chân lí, quán thông muôn pháp, cách
thức hành sử ứng dụng trên muôn pháp không có bất cứ
một mảy may sai lầm nào, đó chính là nhờ trí tuệ. Dù chúng
ta
là những chúng sinh hữu tình được sinh ra từ nghiệp lực,
trí tuệ có bị nghiệp lực làm mê mờ đi chăng nữa,
nhưng trên căn bản chúng ta vẫn có Căn bản trí là một thứ
trí tuệ chân thật không sinh không diệt, không tăng không
giảm về mặt bản thể mà luận, nhưng về mặt nghiệp tướng
thì trí tuệ luôn tùy thuộc vào hiện tướng của nghiệp
duyên
mà chúng thể hiện, do đó trí tuệ trở thành đa dạng
sai biệt theo nghiệp lực của hữu tình thế gian mà có được,
nên trí tuệ ác hữu lậu nặng hơn là trí tuệ thiện che
khuất
mất đi tánh thanh tịnh trong sáng xưa kia, đành phải
trầm luân trong sinh tử luân hồi. Vậy muốn trở lại Căn
bản trí
thì theo đức Đạo sư chúng ta phải hành trì tu tập
phương pháp mới mong trở lại trí tuệ bản nhiên được:
Đó là ba phương pháp Văn, Tư và, Tu. Trước hết chúng ta
cần phải phát tâm tìm cầu nghe pháp (là những lời dạy
của đức Phật, chúng câu hữu với giải thoát) để biết
đâu là chánh đâu là tà gọi là Văn tuệ; sau khi chúng ta
nghe pháp rồi những sự hiểu biết rõ ràng sáng tỏ sẽ phát
sinh nhờ vào tư duy pháp gọi là Tư tuệ; sau khi chúng ta
duy
sáng tỏ rõ ràng rồi bắt đầu chúng ta hành trì tu tập
gọi là Tu tuệ. Nhưng trong ba tuệ này thì Tư tuệ chính là
công phu có được từ Thiền-na như phần trên chúng tôi đã
nói là đem tư duy làm sao cho khế hợp với cảnh giới của
chân lí và, từ đó dần dần phát sinh trí tuệ nhiều hay
ít tùy thuộc vào sự thực hành của hành giả cho đến khi
hành giả đạt được trí tuệ rốt ráo qua bờ bên kia, kết
quả của trí tuệ rốt ráo có được này gọi là Hậu đắc
trí

Các
hàng Bồ-tát khi hành lục độ, ban đầu nổ lực mong cầu
thực
hành hợp lí đạo, sau đó thì dần dần đạt đến
chỗ vô hành không ưa thích cảnh chân lí mà ưa hành chân
, đó chính là hành trí tuệ. Cho nên trọng tâm của lục
độ
là ở nơi trí tuệ, đạo trí tuệ tức là đạo Bồ-đề.
Mục đích của lục độ là đưa hành giả phàm phu vượt
qua
phiền não sinh tử đến bờ an vui giải thoát bên kia của
các bậc Thánh. Các hàng Bồ-tát ngoại trừ giới căn bản
ra, còn cần tu tập lục độ để đạt đến cứu cánh rốt
ráo
của trí tuệ nữa. Do đó trí tuệ qua bờ kia (Bát-nhã
Ba-la-mật
) rất quan trọng đối với các hàng Bồ-tát, khi
thực hành Bồ-tát hạnh của mình. Vì bản thân của trí tuệ
chính là mẹ đẻ của các pháp nên trong lục Ba-la-mật đều
có sự hiện diện của trí tuệ, cho dù tác động của nó
tiêu cực khiến hành giả không nhận ra được sự hiện
hữa của nó như Bát-nhã Ba-la-mật.

Theo
luận Đại Trí Độ 11 thì Tự tánh của Bát-nhã Ba-la mật
có rất nhiều thuyết. Có thuyết cho rằng Bát-nhã Ba-la-mật
vô lậu, vô căn, vì Bồ-tát chưa đoạn hết kết sử,
nên khi thực hành chỉ là tương tựa vô lậu Bát-nhã Ba-la-mật
thôi, cho nên có được tên gọi là hành Bát-nhã Ba-la-mật.
Có thuyết cho rằng Bát-nhã Ba-la-mật là tuệ hữu lậu, vì
Bồ-tát trước đã có trí tuệ lớn và vô lượng công đức,
nhưng các phiền não chưa được đọan tận, nên phải đến
dưới bóng cây Bồ-đề để đọan kết sử, cho nên tuệ
kia là hữu lậu. Có thuyết cho rằng ban đầu mới phát tâm
đến dưới bóng cây Bồ-đề vốn đã sở hữu trí tuệ này
rồi nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật, đến lúc thành Phật thì
chuyển từ trí tuệ thành Tá-bà-nhã (Nhất thiết trí: sarva-jñatā).
Có thuyết cho rằng trí tuệ hữu lậu vô lậu của Bồ-tát
gọi chung là Bá-nhã Ba-la-mật, vì Bồ-tát Niết-bàn, hành
Phật
đạo cho nên trí tuệ của Ngài là vô lậu, còn khi chưa
đọan kết sử, sự nghiệp chưa thành tự nên gọi là hữu
lậu
. Có thuyết cho rằng, Bát-nhã Ba-la-mật của Bồ-tát là
vô lậu vô vi, không thể thấy vì không đống tượng. Có
thuyết cho rằng Bát-nhã Ba-la-mật không thể thấy tướng
mạo
được, chẳng phải là chỗ nhiếp của Ấm, Giới, Nhập,
chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải pháp, chẳng
phải phi pháp, khôngthủ không xả, không sinh không diệt, phi
tứ cú, vô sở trước. Qua những thuyết nói về tự tánh
Bát-nhã Ba-la mật tất cả đều khế hợp với thuộc tính
của từng giai đoạn thức hành của Bồ-tát. Cũng vì vậy
cho nên tự tánh của Bát-nhã Ba-la-mật cũng trở thành đa
dạng tùy thuộc vào căn cơ của hành giả và, cũng tùy thuộc
vào thời gian tu tập mà chúng thể hiện như tất cả những
thuyết đã nêu trên.


theo đức Đạo sư thì hành giả đến với đạo Phật mục
đích
là để thực nghiệm giáo lý qua thực hành tu tập chứ
không phaỉo đến để mà biết suông, do đó vấn đề tu tập
Bá-nhã Ba-la-mật cũng được nổ lực thực hành nghiêm túc
và tonh tấn thì,kết quả mới đạt đượcnhư mong muốn.
Trong rất nhiều kinh có đề cập đến vấn đề tu tập này,
như kinh Quang minh Tối Thắng Vương 4 (Đ. 16, tr. 418c) dạy có
năm cách tu: “Một, Thường thân cận, cúng dường chư Phật,
Bồ-tát và thiện hữu tri thức, không sinh lòng chống trái.
Hai, Chư Phật Như Lai nói pháp thậm thâm lòng thường ưa thích
nghe không chán hay cho là đủ. Ba, Thắng trí chơn tục, ưa
khéo phân biệt. Bốn, thấy tu sửa phiền não nên mau chóng
đoạn trừ. Năm, học hỏi Kĩ thuật thế gian. Năm phương
pháp
này hành giã phải thông đạt. Thiện nam tử! Đó gọi
là Bồ-tát Ma-ha-tát thành tựu trí tuệ Ba-la-mật.” Và trong
Đại Thừa Bảo vân kinh 2, nói có mười cách tu tập Bát-nhã
Ba-la-mật
: “Một, khéo hiểu chân lí vô ngã. Hai,khéo hiểu
quả báo các nghiệp. Ba, khéo hiểu các pháp hữu vi. Bốn,
khéo hiểu sự tương tục của sinh tử. Năm, khéo hiểu sự
không tương tục của sinh tử. Sáu, khéo hiểu đạo của Thinh
Văn Bích Chi Phật. Bảy, khéo hiểu đạo của Đại thừa.
Tám, khéo biết cách lìa xa ma nghiệp. Chín, trí tuệ không
đổ. Mười, trí tuệ không gì bằng. Và như trong kinh Đại
bảo
Tích 50 – 53, phẩm Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã thuật lại
chánh hạnh của Bát-nhã Ba-la-mật như lý mà chánh quán, chứng
nhập
, như lý cú cùng khéo léo phân biệt … cùng trong phẩm
Bát-nhã Ba-la-mật, Phát Bồ-đề kinh luận cũng nói rõ về
ba cách tu tập trí tuệ vừa lợi mình, lợi người và, lợi
cả hai… 

Tóm
lại
, Bát-nhã Ba-la-mật (trí tuệ đến bời kia), nếu
hành giả nào muốn vượt qua đến bờ bên kia của giác ngộ
giải thoát thì nên hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật này, vì chúng
ta
tu tập chúng thì khả năng từ bên bờ phiền não khổ đau
sẽ qua đến bờ an vui giải thoát là đều chắc chắn. Vì
mục đích quan trọng của pháp hành này là từ bờ này đến
bờ kia, tức là ra khỏi sinh tử đạt đến Bồ-đề, tất
cả đều gọi lả Ba-la-mật. Trong kinh hoặc nói Lục Ba-la-mật,
hoặc Thập Ba-la-mật, nhưng Ba-la-mật chân thật chỉ có Bát-nhã,
ngoài ra đều là giả danh ba-la-mật, vì không có Không tuệ
dẫn đạo, tuy Bố thí Ba-la-mật cho đến thiền-na Ba-la-mật
đó cũng chỉ là một cách gọi thôi. Pháp Thinh Văn thừa có
thể vượt qua sinh tử đến bờ Niết-bàn, nhưng sao không
gọi là Ba-la-mật? Vì ý nghĩa cứu cánh Ba-la-mật nói đến
ý nghĩa rốt ráo là thâm hiểu tận cùng thật tướng của
các pháp và, thành tựu viên mãn tất cả công đức tự lợi–lợi
tha mới gọi là Ba-la-mật. Ba vô lậu học của Tiểu thừa
không đạt đến cứu cánh này, nên không gọi là Ba-la-mật
được.

Qua
những trình bày trên về Lục Ba-la-mật, tuy tất cả đều
gọi là Ba-la-mật, nhưng như phần Bát-nhã Ba-la-mật chúng
tôi
đã đề cập vì ý nghĩa rốt ráo của nó vì sự thành
tựu
của Bát nhã phải đi đôi với Ba-la-mật, trong khi những
chi trước sự thành tựu của chúng không cần đòi hỏi phải
có mặt của Ba-la-mật mới được mà tự chúng quyết định
được chính chúng. Điều này chúng nói lên Ba-la-mật chỉ
câu hữu với căn cơ Bát-nhã là chính, còn những chi khác
chúng có hay không cũng không bắt buộc mà chúng tùy thuộc
vào các căn cơ mà chúng phù hợp như Bố thí, trì giới, nhẫn
nhục
, tinh tấn, thiền định của mỗi hành giả, cho đến
cách sắp xếp trước sau, trên dưới, thô, tế theo thứ tự
của sáu pháp này cũng tùy thuộc vào căn cơ cùng thuộc tính
của chúng mà các kinh luận có sự sắp xếp phân loại khác
nhau, như Đại Trang nghiêm Kinh luận 7, xếp theo trước sau,
trên dưới, thô tế tùy theo thực tế hoàn cảnh căn cơ và,
cách phân loại theo thuộc tính mà sắp xếp. Nếu không
của cải thì Trì giới sắp trước bố thí sắp sau và, Bố
thí
dưới trì giới trên cho đến trí tuệ trước, trên, thiền
định
sau, dưới hay Bố thí là thô, trì giới là tế cho đến
thiền định thô, trí tuệ tế. Theo kinh Giải Thâm Mật 4 thì
Lục ba-la-mật đuộc phân ra làm hai theo chức năng thuộc tính
của chúng: Ba chi trước thuộc về Nhiêu ích hữu tình, còn
ba chi sau thuộc đối trị phiền não: Do bố thí nên nhiếp
thọ
đầy đủ của cải thuộc nhiêu ich1 hữu tình. Do trì
giới
nên không hành tổn hại bức bách não loạn thuộc nhiêu
ích
hữu tình. Do nhẫn nhục nên nhẫn thọ tất cả mọi tổn
hại
bức bách não loạn của người khác mang lại thuộc nhiêu
ích
hữu tình. Do tinh tấn nên tất cả mọi thứ phiền não
tuy chưa điều phục, nhưng có thể dõng mãnh tu tập các thiện
phẩm, không làm phiền não khuynh động. Do tịnh lự nên vĩnh
viễn
điều phục phiền não. Do bát-nhã nên vĩnh viễn đoạn
trừ tùy miên. Cũng theo Kinh Giải Thâm Mật 4 thì Lục Ba-la-mật
nếu đem phối hợp với ba học thì, ba thí, giới, nhẫn Ba-la-mật
thuộc về tăng thượng giới học, thiền Ba-la-mật thuộc
tăng thượng tâm học, bát-nhã Ba-la-mật thuộc tăng thượng
tuệ học, riêng tinh tấn Ba-la-mật thì dành cho cả ba học,
trong khi Bồ-tát Địa trì kinh 10 thì xếp Tinh tấn Ba-la-mật
vào tăng thượng giới học. Và Lục Ba-la-mật cũng được
Kinh Giải Thâm Mật 4 và Kinh Bồ-tát Địa Trì 1 phân loại
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục Ba-la-mật thuộc tư lương phước
đức
, Bát-nhã Ba-la-mật thuộc tư lương trí tuệ, còn hai
Ba-la-mật Tinh tấnThiền định thì chung cho cả tư lương
Phước và trí. Hay theo Kinh ưu-bà-tắc giới 2 thì Bố thí,
Trì giới, nhẫn nhục Ba-la-mật thuộc phước trang nghiêm,
còn Nhẫn nhục, Thiền định, trí tuệ Ba-la-mật thuộc Trí
trang nghiêm. Lục Ba-la-mật tuy là phương cách tu tập của
Bồ-tát, thuộc về kinh luận Đại thừa thường đề cập
nhiều hơn là Tiểu thừa, nhưng không vì thế mà pháp tu này
chỉ dành cho Đại thừa không thôi, theo Thuyết Nhất Thiết
Hữu Bộ
thì cũng có nhưng chỉ đề cập đến Bố thí, trì
giới
, tinh tấntrí tuệ Ba-la-mật mà thôi. 


lý tưởng tối cao của các nhà Tiểu thừachứng đắc
quả A-la-hán, trong khi các nhà Đại thừa nhất là các nhà
Trung quán lấy Bồ-tát làm lý tưởng để thực hiện Bát-nhã
Ba-la-mật
hoàn thành Bồ-tát hành mà chứng đắc quả vị
Phật, nên việc hành Lục Ba-la-mật luôn luôn phải tích
cực
chứ không tiêu cực như các nhà Tiểu
thừa
. Các hành giả Tiểu thừa trong mắt của họ thì Niết-bàn
có thể nói như là cơ hồ trạng thái không hư của một loại
lưu ly
luôn hấp dẫn họ, trong khi Bồ-tát Đại thừa
thì trên cầu quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh
cứu cánh mục tiêu tối hậu hoàn mỹ
của họ trong
việc thực hành Lục Ba-la-mật. Hơn nữa, Các nhà Tiểu thừa
theo các nhà Đại thừa thì luôn tự mãn tự kỷ trong giải
thoát
, đối với người khác họ không tích cực trong vấn
đề
cứu tế và ban vui nhổ khổ cho mọi ngườilý tưởng
của họ là mong đạt được quả A-la-hán và hưởng thụ
trong đó mà thôi, nên lý tưởng A-la-hán có nhiều ít ý vị tự tư tự lợi. Họ tự coi “Ba cõi như nhà lửa,
chúng sanhoan gia.
” nên đối với tha nhơn họ coi
như là một chướng ngại cho sự giải thoát của họ, trong
khi Bồ-tát thì tận sức lực cứu tế chúng sanh. Tuy Bồ-tát
đã có năng lực, đã đủ tư cách để chứng đắc Niết-bàn,
nhưng vì nguyện lực hoàn thành thượng cầu hạ hóa nên cho
dù luôn gặp mọi khổ nạn cùng những nổ lực trong sự nghiệp
chúng sanh mà các ngài đã phải lưu huyết hay đổ mồ
hôi vẫn chịu đưng mọi khó khổ trong việc: “Ta không
vào địa ngục thì, ai sẽ vào địa ngục đây
!” hay
Không đoạn phiền não thì, không tu thiền định.”
Đây là hai chức năng tự độ và độ tha của Bồ-tát hành
không
thể thiếu đi một trong sự nghiệp giải thoát của
các Ngài. Qua hành nguyện của các hàng Bồ-tát cho chúng ta
thấy rằng hình như có sự mâu thuẫn trong việc thực hành
Bồ-tát hành của mình, vì rõ ràng Bồ-tát chưa tự giải
thoát
cho chính mình thì, làm sao để hướng dẫn người khác
giải thoát được? Thật ra về mặt hình thức chúng ta chưa
thấy những chứng cứ để bảo rằng các ngài đã giải thoát
rồi, nhưng về cách thị hiện rõ ràng các Ngài nguyện
lực
thị hiện giữa thế gian này
, còn chúng
sanh
thì sinh ra từ nghiệp lực
; nếu chúng ta nhìn ra
được điều này thì những mâu thuẫn và những thắc mắc
của chúng ta sẽ được hóa giải ngay. Đây là chúng tôi chỉ
nêu ra một khía cạnh trong nhiều khía cạnh khác như lòng
từ
, bình đẳng trên mặt tự lợi, lợi tha, tự độ, độ
tha
để hoàn thành giác hạnh viên mãn cuối cùng. Đó là những
khác biệt giữa Bồ-tát Đại thừa và Thinh văn Tiểu thừa
cũng như đối với chúng ta trong việc thực hành Lục Ba-la-mật.

Phương
pháp
thực hành thực hành Lục Ba-la-mật của Phật giáo luôn
trực tiếp liên hệ đến ba học, giới, đinh, tuệ và, không
lìa ba nền tảng căn bản này của đức Đạo sư. Qua đây,
pháp môn tu hành của Phật giáo trong hiện tại có những chuyển
biến
tùy thuộc vào thời đại xứ sở nhơn tâm của xã hội
mà theo đó bố thí mang ý nghĩa của từ thiện bố thí, nhẫn
nhục
thì mang bộ mặt mới được an nhẫn ẩn núp trong các
dạng đạo đức xã hội, nhưng không mất đi tín tâm ban đầu,
luôn đi song song cùng các pháp khác tùy thuộc vào thuộc
tính của những đối cơ có được từ chúng ta. Tuy nhiên
trong hiện tại kinh Bát-nhã được mọi người cùng chấp
nhận
như là một nhân tố chủ đạo trong Lục độ dù là
Tiểu hay là Đại, họ đều chấp nhận Bát-nhã là một pháp
môn
tối cao, nhưng nói chung chỉ dành cho lịch trình tu hành
của các hàng Bồ-tát hơn là cho tất cả. Vì mọi người
quan
niệm
chúng sinh sinh ra vì nghiệp lực nên việc lấy tu tập
thiền
định, tu tập phước công đức là chủ yếu vì căn
phù hợp và làm sạch ba nghiệp phiền não do thân, khẩu,
ý sinh ra.

Tóm
lại
, qua những trình bày về ý nghĩa công dụng của Lục
Ba-la-mật
, cho hành giả chúng ta có một nhận thức cơ bản
về cả hai mặt tự lợilợi tha cho cả hai Thừa của
Phật giáo, tuy trên mặt căn cơ có sự sai biệt, nhưng về
mặt tác dụng chúng vẫn có những giá trị nhân quả ngang
nhau dù là đại hay tiểu, dù là tiêu cực hay tích cực, chúng
vẫn mang lại cho hành giả những kết quả theo từng thuộc
tính của chúng về: Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā), là bố
thí
hoàn toàn tuyệt đối, trong đó có cả ba loại Tài thí,
Pháp thí và, Vô úy thí, ở đây phải được thể hiện
ba luân không tịch thì mới lột hết cái nghĩa Ba-la-mật được.
Thi-la Ba-la-mật (Śīla-pāramitā), là chỉ cho việc trì giữ
luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình
giới
, chúng có khả năng đối trị nghiệp ác khiến cho ba
nghiệp
thân và tâm trở thành thanh tịnh, thì việc qua bờ
kia đã hòan thành. Sàn-đề Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), là
chỉ cho việc tu tập nhẫn nại oán hại, An nhẫn chịu khổ,
xét kỹ pháp nhẫn có khả năng đối trị sân nhuế, khiến
tâm trụ vào an ổn, vượt qua ba độc hòan thành giải thoát
khổ đau. Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā), là hoàn thành
tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Tinh tấn
siệng năng tu tập các thiện pháp, tức là chỉ cho thân siêng
năng tinh cần tu tập bố thí, trì giới thiện pháp, tâm tâm
liên tục miên mật siêng năng tu tập nhẫn nhục, thiền định
trí tuệ. Cho nên tinh tấn có khả năng về hai mặt thân
và tâm để đối trị với căn bệnh lười biếng của ác
pháp
sinh trưởng các pháp lành và hòan thành mọi nổ lực
trong tu tập các pháp vưỡt thoát. Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā),
là chỉ cho sự tu tập tịnh lự hiện pháp lạc trú, tịnh
lự
đưa đến thần thông, tịnh lự lợi lạc hữu tình, chúng
có khả năng đối trị loạn ý, nhiếp giữ ý niệm đối
tượng bên trong không cho chạy theo các duyên bên ngoài, để
từ đó làm chủ được thân và tâm mình lúc nào cũng ở
trong đại định, hòan thành vô công dụng đạo qua bờ bên
kia
. Bát Nhã Ba-la-mật (prajñā-pāramitā), là hoàn thành trí
tuệ
, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng nghĩa,
tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si, biết rõ
thật tướng các pháp hiện hữubiến dịchÝ nghĩa
giá trị của Lục Ba-la-mật như trên, tuy chúng tùy thuộc
vào từng phương pháp một về mặt nhân quả tương đối
nói lên giá trị tích cực của chính chúng; nhưng về duyên
khởi
thì chúng ở trong nhau, một pháp hòan thành thì hòan
thành tất cả sáu pháp. 

1
Kinh Trường A-hàm 21, Tuệ Sỹ dịch và hiệu chú.


2 Kinh Tăng Nhất A-hàm 44, Thích Đức Thắng dịch, Tuệ Sỹ hiệu
chú.


3.
Nhiếp Đại thừa luận quyển trung.


4
Đ. 44, ta. 705b