Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

0
38

ĐẠI THỪA KIM CANG KINH LUẬN
Thích Viên Giác dịch
Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California 1996

Lời Ban
Biên Tập:

Quyển
Đại Thừa Kinh Kim Cang Luận này xuất hiện lần đầu
tiên tại Việt nam vào năm 1963. Sách ấn tống, không
đề tên dịch giả và nhà xuất bản. Cho đến năm 1965
quyển “Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận” chính thức được Đại
Đức
Thích Viên Giác dịch
tại Phật Học Viện Hải Đức
Nha Trang và ấn tống cùng năm đó. Sách được viết lời
tựa bởi Sư Bà Thích Nữ Diệu Không. Năm 1983 sách được
tái bản bởi Chùa Đức Viên, San Jose và đến năm 1996 được
tái ấn tống bởi Trung Tâm Phật Giáo Hayward, Hayward California.
Hai bản dịch có nội dung và cấu trúc trình bày tương tợ,
tuy lời văn có đôi chút khác. Thí dụ như trai
lành gái tín nơi bản dịch năm 1963 thì bản dịch năm 1965
là người nam người nữ. Dưới đây là bản dịch năm
1963:

Ta
nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu,
ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn,
Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
Khi
bấy giờ, có vô số các vị mới phát tâm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni
, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều nghĩ tưởng như vầy: Đức
Phật
nói pháp đại thừa, ý chúng ta không hiểu được, phải
chi đức Phật phương tiện chỉ dạy những chỗ cạn thấp
dễ dàng, chúng ta nhờ đó được tỏ ngộ tri kiến của Phật
chứng đạo quả.
Ý
muốn
thưa hỏi mà chẳng dám lại gần. Bấy giờ Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi
biết những tâm niệm của bốn chúng, nên
phương tiện từ chỗ ngồi đứng dậy; đến trước đức
Phật
mà bạch rằng: Xin đức Thế Tôn mở lòng đại từ,
lập những pháp phương tiện chỉ dạy cho những chúng sanh
sơ cơ thấy tánh thành Phật, lại vì đời sau những chúng
sanh
mới bước vào nhà Phật, tìm học mối đạo đặng chánh
tri kiến, không bị tà giáo phỉnh hoặc, không dụng công nhiều
mà đặng thành đạo quả. Đức
Phật
nói: Hay lắm! Hay lắm! Nầy Văn Thù Sư Lợi, ông có
phương tiện lớn lao, thỉnh hỏi Như Lai chỉ dạy ba căn và
con đường tu hành ngay thẳng cho chúng sanh đời sau mới vào
cửa đạo, theo lời ông hỏi ta sẽ nói rõ. Trong đại chúng
đều lặng yên để nghe Phật nói pháp.

Đức
Phật
bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Có một pháp Đà la ni
tên là Kim Cang tâm hay khiến chúng sanh một phen thấy, một
phen nghe liền đặng đạo quả. Này gã trai lành! Thế nào
gọi là Kim Cang tâm? Tâm này người người vẫn có không kẻ
nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết
lấy, tự hiểu lấy. Vì sao? Hết thảy việc lành, việc dữ
đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình
được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn
khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao
vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học,
đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do
tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục.
Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành
Phật
, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm
ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết
thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình,
làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường
làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật.

Phật
nói: Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu
có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không
rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật. Nếu có
người người rõ được tâm, thấy được tánh, y theo Phật
dạy tu hành, quyết định thành Phật, còn hơn công đức tụng
ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp.

Tại
sao? Hết thảy các Đức Phật và các pháp A nậu đa la tam
miệu tam bồ đề
của chư Phật đều tự nơi tâm mình phát
sinh ra, vô cùng vô tận, không hư không lộn, nên gọi là ngộ
Phật tâm. Cho nên Phật cùng chúng sanh tâm tánh như nhau, tại
người tu và không tu, tin cùng chẳng tin, nên có người làm
Phật
có người làm chúng sanh.

Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi
bạch Phật: Sao gọi là Kinh Kim Cang?

Đức
Thế Tôn
nói: Kim Cangthí dụ tánh của mình, còn Kinh thì
thí dụ tâm của mình. Nếu người rõ tâm mình, thấy tánh
mình, người này tự trong thân có Kinh, trên sáu căn thường
hiện ra hào quang sáng suốt, chói lòa trời đất, đầy đủ
công đức như số cát sông Hằng, sanh ra tứ quảtứ tướng,
thập thánh tam hiền nhẩn đến ba mươi hai tướng của đức
Như lai
và tám mươi việc tốt. Hết thảy công đức đều
từ nơi mình, do tâm địa mà ra chứ không phải tìm nơi ngoài
mà được.

Tại
sao? Nếu có người minh tâm kiến tánh thường nghe tâm Phật
của mình, thường thường nói pháp, thường thường độ
chúng sanh, thường thường hiện thần thông, thường thường
làm việc Phật, hiểu được lý như vậy mới gọi là thọ
trì
Kinh Kim Cang, mới gọi là Kim cang bất hoại thân.

Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Trong Kinh Kim Cang đức Phật
thường khen ngợi thọ trì bốn câu kệ v.v… giảng nói cho
người khác nghe thì phước đức ấy còn hơn là phước đức
đem bảy báu chất đầy Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên
dưới hư không ra bố thí, lại hơn phước ngày đầu, ngày
giữa, ngày sau nhẩn đến trăm nghìn kiếp đem thân mạng như
số cát sông Hằngbố thí. Chẳng biết thế nào là bốn
câu kệ?

Phật
nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, xưa nay chẳng
sanh, xưa nay chẳng diệt, bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm.

Tại
sao? Chúng sanh thường mê không giác ngộ cho nên nhiều kiếp
đọa lạc. Chư Phật thường giác ngộ chẳng mê cho nên thành
Phật
đạo. Nếu có trai lành gái tín học hỏi đạo Phật,
công trình vào đạo chia làm bốn việc, gọi là bốn câu kệ:
là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp.

Sao
gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ
khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật
không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưngười
trai
lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì
khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả
này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ
nhất.

Thường
quán
sát
tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí
linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay
biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng
tưởng
kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ
Tâm không, câu kệ thứ hai.

Lại
quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động,
nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh
khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết
linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là
ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.

Lại
quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện
dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như
bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như
bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không,
câu kệ thứ tư.

Nghĩa
của
bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập
thánh
, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi
đến quả vị cứu cánh.

Tại
sao? Nếu ngộ đặng ý câu kệ thứ nhất, y theo nghĩa mà tu
hành
thì chứng đặng quả Dự lưu Tu đà hoàn; ngộ đặng
ý câu kệ thứ hai, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng đặng
quả Nhứt lai Tư đà hàm; ngộ đặng ý câu kệ thứ ba, y
theo
nghĩa mà tu hành thì chứng đặng quả Bất lai A na hàm;
ngộ đặng ý câu kệ thứ tư, y theo nghĩa mà tu hành thì chứng
đặng quả Vô sanh A la hán.

Bốn
câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu
thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe
ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không
nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần
phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không
được một phần.

Đức
Phật
bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật
sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh
tâm
kiến tánhthành công đắc quả, vì Phật tánh người
sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng
thành Phật.

Tại
sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn
cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:

1.-
Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.

2.-
Tìm minh sư chỉ dạy công phu.

3.-
Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.

4.-
Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.

5.-
Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.

6.-
nhân quả việc làm đừng có vọng động.

7.-
Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.

8.-
Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.

9.-
Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.

10.-
Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.

Nếu
đủ mười điều công đức này thì mau đăïng thành bậc
vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi
ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh
căn
trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có
trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống
cao
ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để
cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước,
nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự,
hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoăïc học được
hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đăïng nói
là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn
quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình
điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa
dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ
đề
, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Thế nào là tứ sanh. Tạo
những nghiệp chi mà bẩm thọ thân mạng mỗi loại không giống
nhau?

Thế
Tôn
nói: Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay gây tạo
nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành, vùi lấp chơn
tánh, tham luyến trần duyên mãi mãi. Bởi tham, sân, si tạo
các tội lỗi không lường không ngằn như là: sát sanh, trộm
cắp
, tà dâm v.v… đến khi luân hồi bẩm thụ thân mình đều
khác.

Nay
nói sơ qua nghiệp chướng bốn loại:

1.-
Noãn sanh: Là người đời trước vì kế sinh hoạt, tâm hay
ssắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt, nên đọa làm noãn sanh
như các loài chim cá v.v… Người tham kế cao thì làm chim,
thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người
thì lặn xuống.

2.-
Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa
thai sanh như người, dê, heo, cùng thú có vú đẻ con như trâu,
bò, ngựa, mèo, chó. Tội tham dâm sanh làm người thì đặng
đứng thẳng, nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết
độ
thì sanh làm thú đi ngang bốn cẳng (chân).

3.-
Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn rượu thịt làm
việc vui chơi, đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo,
nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạnh v.v…

4.-
Hóa sanh: Người này đời trước hay dời đổi, ý niệm khác
thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy, làm nhiều
tội ác, nên đọa hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi
v.v…

Phật
nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, con
người
quý trọng, vì người có tánh linh. Phật cũng từ
trong loài ngườitu hành, nghiệp cũng do người tạo ra,
như người tu phước thì được về cõi Trời, người làm
ác thì đọa vào địa ngục, người có đức thời làm Thần,
người có đạo thì làm Thánh. Phước và tội đều có liên
quan
nhiều đời, không thể đem hiện tạinhận định,
đến khi lâm chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường,
đường người là quý, năm đường kia không sánh kịp, nên
một khi mất thân người, muôn kiếp không thể phục hồi
lại được.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là
ngũ nhãn?

Thế
Tôn
nói: Nhục nhãn chỉ thấy được chỗ tối, thấy trước
mắt
chớ không thấy sau lưng. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài,
núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại. Huệ
nhãn
thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả
lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn
tay. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư
Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy
theo
căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh
nào cho thuốc nấy. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước
kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy
trước mắt, mảy lông cộng tóc không sót.

Năm
thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu
cảm
mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các
bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại
cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có
được.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là thanh tịnh pháp
thân?

Thế
Tôn
nói: Thanh tịnh pháp thân ấy là chơn tánh thanh tịnh.
Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy
pháp thân, xưa nay thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại
không thành. Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh
hiền
gọi là thánh tánh, trong trời đất gọi là thiên tánh.
Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh, tại chỗ chư Phật gọi
thanh tịnh pháp thân. Nếu không tu hành thì không thể ngộ
được bản lai diện mục. Nếu người muốn được giác ngộ
mà không cầu thầy chứng minh cho, nhận giả làm thiệt, lâu
ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo, thành yêu thành quái, phỉnh
gạt chúng sanh. Hiện đời sẽ bị pháp luật nhà vua hành
phạt
, chết rồi đọa vào ác đạo, một khi mất thân người
muôn kiếp khó khục hồi được.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao gọi là vô trí Niết bàn?

Thế
Tôn
nói: Cái tâm mình lặng yên không lay động, các đức
Phật
trong ba đời đều đi theo con đường này đến chỗ
tâm bất động, nên được thọ hưởng chỗ không vui mà vui,
lại không có cái vui nào hơn cái vui này, nên gọi là vô trí
Niết bàn.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Lấy chỗ công phu tu chứng
nào mà đặng vượt ra ngoài phàm phu vào quả thánh đạo?

Phật
nói: Nếu người trai lành gái tín theo đạo Phật thì phải
bỏ những việc ái ân, dứt đoạn tình duyên, giữ gìn trai
giới
, chuyên làm mười việc lành, ba nghiệp trong sạch, xa
lìa
lục trần. Lập chí tìm thầy học hỏi chỗ chánh pháp,
y theo thầy dạy, đừng đi theo lòng phàm dẫn dắt sai quấy,
y theo Phật tu hành, nếu có công phu như vậy thì đặng chứng
Tu đà hoàn. Có người lành tập theo uy nghi của Phật, giới
luật
trong sạch, một lòng ngồi tịnh, tâm không tán loạn.
Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều nhiếp phục cái tâm đối với
đời, động ít tịnh nhiều, có công phu như vậy thì đặng
chứng quả Tư đà hàm. Lại có chúng sanh trong ba nghiệp chẳng
móng, sáu trần chẳng sanh, tịnh lâu công dày, tâm tánh thường
hiệp nhất, tâm đối với đời lặng yên chẳng động, tâm
đặng thông thả, bằng có cái công như vậy thì đặng chứng
quả
A na hàm. Có chúng sanh lấy chỗ cái tâm thong thả đó
tập thành năng lực thiền định, tánh định hiện ra trước,
biết rõ chân tánh của mình xưa nay vắng lặng, tâm cảnh
đều không, lòng tâm lặng yên không lay động, có công như
thế đặng chứng quả A la hán.

Người
nào
tu đặng công phu của bốn quả này, vượt ra khỏi cõi
người
, cõi trời lục dục vào chỗ đạo tràng vắng lặng
của các bậc thánh hiền, đồng Phật xuất thế, giúp Phật
độ
khắp nơi, làm cho quốc độ Phật trở thành thanh tịnh.
Độ mình độ người đặng trả ơn đức Phật, thẳng đến
Bồ đề đạo tràng, lòng không điên đảo, nên tên là tứ
quả
đặng đạo của bậc thánh nhân.

Phật
nói cùng Văn Thù Sư Lợi: Như người nào đặng bốn quả
lòng tin thiệt, y theo lời dạy bảo của thầy, chẳng có
hai lòng, giới đức tinh nghiêm, oai nghi đầy đủ, việc đời
tài sắc, ái ân, danh lợi phải đoạn bỏ cho dứt, phải tuyệt
cho hết từ trước đến sau, giữ đạo một lòng tuy chưa
đăïng thông và hiểu nhiều, mà tâm tánh bền chặt trong sạch
giải thoát cũng như Phật không khác, nên cái quả vị siêu
phàm
nhập thánh.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Những người thế nào gọi
là có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng?

Thế
Tôn
nói: Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho
là ta, tham sống sợ chết gọi là ngã tướng; lòng còn thương
ghét, ý chẳng bình đẳng gọi là có nhân tướng; niệm tưởng
theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải
thoát
là có chúng sanh tướng; tâm thức chưa diệt trừ, nghiệp
chướng
thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp
sanh
chân không thật tánh, thường theo tâm cảnh ý thức dẫn
dắt, gọi là có thọ giả tướng.

Còn
vị Bồ tát biết cái thân phàm là giả, tỉnh ngộ cuộc đời
không chắc, thân mình còn không tiếc huống chi là gia tài?
Chỉ tiếc việc Phật, dạy pháp đại thừavô ngã tướng.
Xem hết thảy chúng sanh bình đẳng như con đẻ, không lựa
chọn
kẻ sơ người thân, đều bình đẳng tế độ, gọi
là không nhân tướng. Người tâm đối với đời một phen
dứt rồi là dứt luôn, không nối lại nữa, gọi là không
chúng sanh tướng. Người tỏ biết chỗ vô sanh Phật tánh,
chẳng theo phàm tình ý thức dẫn dắt, nương theo phương tiện
nguyện lực hành trì là không có thọ giả tướng. Nếu còn
bốn tướng gọi là phàm phu, bốn tướng hết rồi gọi là
Bồ tát.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao gọi là ngũ căn, ngũ Phật
đồng gieo trồng căn lành?

Thế
Tôn
nói: Nếu người đặng trai giới trong sạch, minh tâm kiến
tánh
, tìm thầy học các lý mầu chân chánh, đặng nghe thấy
chân chánh, thời con mắt như Phật thấy, lỗ tai như Phật
nghe, lỗ mũi như Phật thở, miệng như Phật nói, tâm như
Phật biết, ngũ căn thường hiện ngũ Phật thần thông, trồng
giống căn lành thành một giống trí của Phật. Như có người
giữ đặng chắc chắn, làm chủ đặng tâm của mình y theo
Phật tu hành, Phật nói người này chắc chắn thành Phật.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tu làm sao đặng chứng sáu
pháp Ba la mật?

Thế
Tôn
nói: Bằng có chúng sanh nào bỏ được rượu thịt chẳng
ăn, bỏ tài lợi chẳng tham, bỏ đặng ái ân chẳng mến,
bỏ đặng việc ác chẳng làm, bỏ đặng nhân ngã chẳng tranh,
thì đặng thứ nhất Bố thí Ba la mật. Có chúng sanh giữ
đặng giới Phật, tập đặng uy nghi Phật, hàng lục tặc,
dứt đặng việc tà mị, thì đặng thứ hai Trì giới Ba la
mật
. Có chúng sanh nào hay chịu đặng người chê nhơ nhớp,
hay nhịn đặng người mắng chửi, người nói lời chẳng
phải lấy lời khuyên giải, việc nghịch đem đến lòng thuận
chịu liền không oán hận, trái lại còn tìm phương độ thoát,
thì đặng thứ ba Nhẫn nhục Ba la mật. Có những chúng sanh
nào học đặng mười hai bộ kinh của Như Lai, thọ trì đọc
tụng
, biên chép giảng nói chưa thông học cho thông, chưa chứng
học cho chứng, thì đặng thứ tư Tinh tấn Ba la mật. Có chúng
sanh
nào đoạn được trần duyên, dứt đặng vọng niệm,
trừ đặng mê muội tán loạn, tập đặng thiền định, sức
định như núi Tu di, Ma vương phá khuyấy không rối loạn,
thì đặng thứ năm Thiền định Ba la mật. Có chúng sanh phá
được vô minh không còn các tướng, lýsự đều không, thị
phi
dẹp hết, lời nói đứng đắn, mỗi chữ rành rõ, thì
đặng thứ sáu Trí huệ Ba la mật. Nếu người nào đặng
sáu pháp Ba la mật thì người ấy đặng ra khỏi sanh tử,
đặng đến bỉ ngạn, đặng siêu tam giới, đặng lên thập
địa
và đặng thành Phật.

Bồ
tát Văn Thù sư Lợi
hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện
trí
thức?

Đức
Phật
nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới
hạnh
tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến
vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có
đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh
cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt
đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành
trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều
hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện
trí
thức.

Nếu
trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ
nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho
cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm
cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa
chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng
trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt.
Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn.
Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tu phước nghiệp chi đặng
sanh Thiên đường?

Đức
Phật
nói: Nếu có chúng sanh tin theo luật nhân quả, thọ tam
quy
trì ngũ giới, tu mười việc lành, hiếu dưỡng cha mẹ,
dứt đoạn tà dâm. Thường giữ đạo chánh, trai tăng cúng
dường
, tạo tháp lập am, đọc tụng kinh đại thừa, sơn
thếp hình tượng Phật rực rỡ. Ủng hộ người lành, ngăn
ngừa
các việc ác, gieo trồng ruộng phước đến chừng mạng
chung
đặng sanh về ba mươi ba cõi trời, thọ hưởng phúc
trời năm dục vui đẹp, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có
mặc, đều là tự nhiên hóa ra chẳng dụng sức người tạo
tác. Trên trời một ngày, nhân gian trăm năm, đầy đủ năm
pháp thần thông, đặng khoái lạc tiêu diêu thong thả.

Đức
Phật
nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Trong thế gian có người
tà sư ngoại đạo, chẳng biết việc lành việc dữ nhân quả
ra sao, chẳng hiểu được việc ứng hiện của luân hồi quả
báo
, tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến tôn thờ thần quỷ,
làm theo phép tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao
nhiêu thân mạng sanh linh heo, dê, trâu, ngựa v.v… tham ăn rượu
thịt, bày đặt gọi rằng cúng tế trời đất quỷ thần,
đặng cầu phước cầu thọ, trấn giữ nhà cửa thân mạng,
lấy cớ dâng cúng quỷ thần, lường ăn của người. Lại
thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng:
bùa chú này có công lực độ người sanh về cõi trời. Bởi
ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân sống
đều do tà kiến sanh ra.

Như
giết mạng mà cứu đặng mạng, thời bậc vương hầu thường
sống đời đời không chết. Như vẽ bùa niệm chú mà cứu
độ
đặng người thành đạo, thời thầy tà đặng lên trời.
Có lẽ đâu đặng vậy! Trong đời người mê tính những tà
mị, đồng nhau dẫn vào địa ngục, hễ mất thân người
muôn kiếp khó trở lại đặng.

Cớ
sao vậy? Như cầu phước chẳng qua trai giới bố thí; cầu
thọ
chẳng qua giới sát phóng sanh; cầu huệ chẳng qua học
rộng
nghe nhiều; cầu an tâm chẳng qua xét ngăn những việc
phải
quấy. Cho nên muốn cầu đạo chánh thì đừng tin thầy
tà, muốn ra khỏi luân hồi thời đừng có phạm luật nhân
quả
.

Bởi
sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà
với chánh khác nhau, khổ vui cách biệt.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là lục sư ngoại đạo?

Thế
Tôn
nói: Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ ma Ba tuần xen
vào
trong pháp ta. Ở chùa cạo đầu mặc áo Phật xưng là
đệ tử của Phật, chung lộn với người đời ăn thịt uống
rượu làm nhơ bẩn đức Phật, là ngoại đạo thứ nhất.
Có người dắt vợ đem con vào trong chùa học theo tà thuật,
cho là để truyền lại đệ tử, ăn thịt uống rượu, cũng
đi làm chay tụng kinh cho người, không phải người tục, là
ngoại đạo thứ hai. Lại có những người trên thời không
có thầy truyền, dưới không có thầy chứng, bị ma quỷ ám
ảnh
mê muội, trí biết bậy bạ cho là thông minh, chẳng có
công tu tự xưng thành đạo, bên ngoài làm giống theo Phật,
trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời theo vào
đường tà, diệt hột giống trí của Phật, là ngoại đạo
thứ ba. Có người làm theo việc hữu tình, học phép hữu
vi
, vẽ bùa thỉnh chú, đưổi quỷ sai thần, phỉnh gạt người
đời, ác kiến càng nhiều thì chánh kiến của Phật càng
tiêu diệt, là ngoại đạo thứ tư. Có người y theo việc
tốt xấu, học theo chiếm quẻ, bàn luận kiết hung, coi bói
xem tướng, nói trước những điềm họa phước, dối chúng
gạt người, tiêu diệt chánh pháp của Phật, là ngoại đạo
thứ năm. Có người sửa soạn hình tướng bụng trống lòng
sao, mình không có tài năng mà lòng tự cao cho mình giỏi, chưa
chứng ngộ cho mình chứng ngộ, học đặng một vài lời
cho mình thấu đặng lý. Chẳng ăn dầu muối, trà quả, tương
dấm, chấp theo tà tướng dối gạt người không trí, chẳng
cần xem kinh niệm Phật, chẳng cần làm phước tham thiền,
chẳng cần xuất gia thọ giới, chẳng cần tầm sư học đạo.
Dám đem cái sắc thân giả dối này mà cho cùng Phật không
khác, dối gạt người không biết, đồng vào chỗ hắc ám,
dứt đoạn căn lành tiêu diệt giống trí huệ, hay chấp trước
những sự khờ khạo ngu si, là ngoại đạo thứ sáu.

Sáu
hạng ngoại đạo này là ma Ba tuần; đến sau mạt pháp xen
vào
giáo pháp ta, phá hoại già lam, hủy báng chánh pháp của
Phật, chê bai những giáo tướng nghi thức tụng niệm.

Nên
Phật dạy những vị Bồ tát đại thừa phải đem nguyện
lực
, tùy chỗ ứng hiện hoặc làm vị Đế vương, hoặc làm
vị Tể quan, hoặc làm vị Trưởng giả, đều ở mọi chỗ
làm vị đàn việt đặng diệt trừ tà đạo, ủng hộ chánh
pháp
, không cho ngoại ma tự tiện khuấy phá, y theo lời Phật
dạy
đây mới thật là đệ tử của Phật. Còn như thuận
theo
tà là đồng với ma Ba tuần ngoại đạo, hủy báng pháp
đại thừa, sa đọa vào địa ngục A Tỳ như tên bắn, hễ
mất thân người rồi, muôn kiếp khó trở lại đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn
tánh chậm tối, trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa
rồi làm sao đặng độ người?

Phật
nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặc chân
thật
không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám
hối
cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn
nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh
phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng
mình và đặng thành Phật.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng
lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người
lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh
dể thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng
tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả
báo
chi?

Đức
Phật
nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời
chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ,
chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho

ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Hết thảy tội nghiệp, nghiệp
nào lớn hơn hết?

Thế
Tôn
nói: Hết thảy trong các tội, sát sanh, ăn thịt tội nghiệp
rất nặng. Cớ sao vậy? Như cắt một dao trả lại một dao,
giết một mạng phải thường lại một mạng, trăm ngàn muôn
đời ăn thịt lẫn nhau không dứt. Cho nên người tu muốn
khỏi luân hồi trả quả thời trước hết phải học từ
bi
, chẳng ăn thịt chẳng sát sanh.

Thứ
hai, phạm tội trộm cắp lấy của người, hoặc vốn ít lời
nhiều, trong ngàn muôn đời phải trả nợ. Cớ sao vậy? Như
vật của người chẳng cho mà mình lấy ngang, một đồng tiền,
một bụm gạo, kiếp sau đều phải trả nợ. Cho nên người
tu muốn cầu giàu sang, của tiền như ý mình thì trước phải
bố thí mới đặng, hà huống trộm cắp của người.

Thứ
ba, phạm tội tà dâm, cái ân ái buộc ràng trong ngàn muôn
đời chẳng đặng giải thoát. Cớ sao vậy? Sự dâm dục
hột giống cội gốc đường sanh tử. Cho nên người tu muốn
ra khỏi sanh tử, trước phải đoạn trừ ái dục.

Thứ
tư, phạm tội vọng ngữ, cái khẩu nghiệp nói dối trong ngàn
muôn đời, cái phải cái không gạt nhau, việc không nói có,
việc có nói không. Do cớ sao? Oan oan tương báo, đời đời
đền trả. Cho nên người tu muốn cầu vào đạo, trước phải
học thành thật, trừ bỏ việc dối trá.

Thứ
năm, phạm tội uống rượu, hôn mê chân tánh, trong ngàn muôn
đời tâm trí tối tăm. Cớ sao vậy? Vì tửu lực làm cho người
mê muội ngu si, thân thể nhơ nhớp, say sưa nghiêng ngả. Cho
nên người tu muốn cầu cho tâm tánh yên tịnh, trí huệ thông
minh
thì phải dứt trừ cái nghiệp uống rượu.

Năm
thứ nghiệp đó rất lớn, rất nặng, như người giữ trọn
đặng thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì nhiều kiếp
trầm luân đọa lạc, hễ mất thân người muôn kiếp khó
trở lại đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa
làm ngạ quỷ?

Thế
Tôn
nói: Những chúng sanh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng
thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem
thọ dụng riêng.Có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng
thí lại thêm mắng chửi, cứ lo cho mình no ấm không thương
người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trên đường
ngạ quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây
kim, nuốt ăn chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng,
như hòn núi, thoảng như gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống
ấy hóa đồng sôi sắt nóng, đói cho đến đổi trong miệng
hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen, đền tội
đủ rồi mới hết nghiệp khổ.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa
làm súc sanh?

Thế
Tôn
nói: Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm
thú
, bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng, nên trả quả làm
súc sanh đền thường mạng trước. Lại có người mượn
vay tiền bạc của người đoạt lấy chẳng trả, quả báo
làm súc vật trả cái nợ cho người, trả cho hết cái nghiệp
đó mới ra khỏi luân hồi.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là nhất thế Tam Bảo?

Đức
Phật
nói: Cái tánh là Phật bảo, thường thường chẳng động;
cái tâm là Pháp bảo, tỏ sáng công chánh; cái thân là Tăng
bảo
, trai giới trong sạch.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là tam tịnh giới?

Phật
nói: thứ nhất phải trừ hết tâm ác; thứ hai phải đầy
đủ tâm lành; thứ ba phải độ hết chúng sanh. Đây tên là
ba pháp tịnh giới của vị Bồ tát.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Tu những phước nghiệp
được làm người đàn ông?

Thế
Tôn
nói: Người biết cung kính Tam bảo, thảo nuôi cha mẹ,
thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở
công chánh, quí mến người hiền lương, tu những căn lành
như vậy thời đặng làm người đàn ông. Nếu trong ba kiếp
chẳng tu thời đọa làm đàn bà. Trong năm trăm năm làm thân
đàn ông một lần, hoặc khi chuyển đổi thân, quên mất kiếp
trước
, gặp nhân duyên ác lại tạo việc chẳng lành, nên
mất thân đàn ông muôn kiếp khó trở lại đặng.

Lại
nữa Văn Thù Sư Lợi! Thân đàn ông có đầy đủ bảy báu;
thân người đàn bà có năm thứ lậu. Sao tên là bảy báu?


Một là có cái báu chí khí, đi dạo chơi chỗ nào cũng không
lo sợ.


Hai là có cái báu làm chủ , làm việc gì cũng được nắm
giữ quyền hành.


Ba là có cái báu tạo thành, tự mình sanh tài lập nghiệp.


Bốn là có cái báu an thân, giúp việc vua quan, hiếu dưỡng
mẹ cha.


Năm là có cái báu thánh tri, hay quyết đoán sự phải quấy.


Sáu là có cái báu an bang khắp cả, sự lý dung hòa.


Bảy là có cái báu định tánh, được gần gũi người hiền,
tôn thờ vị thánh.

Cho
nên gọi là người đàn ông trong mình có bảy báu.

Còn
sao gọi là năm thứ lậu?

1.-
Chẳng đặng làm chủ cái thân.

2.-
Chẳng đặng làm chủ trong nhà.

3.-
Chẳng đặng làm chủ người khác.

4.-
Chẳng đặng làm chủ các súc vật.

5.-
Chẳng đặng làm vị Thánh.

Đây
gọi là năm thứ lậu của người đàn bà.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Có người tuổi còn nhỏ tạo
nhiều nghiệp dữ, đến khi già tu hành, đăïng thành Phật
không?

Đức
Phật
nói: Bể khổ không ngằn mé, nếu quày đầu thì thấy
bờ bến ở mé sau lưng, nếu có người hồi tâm phát nguyện
tu hành, bỏ việc quấy theo việc phải, cải dữ theo lành,
trường trai ngăn cấm rượu thịt, học hỏi chánh pháp, bất
kỳ già trẻ đồng thành Phật đạo.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Có người trai lành gái tín
một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa
ngã
bỏ ăn chay phạm giới cấm, sau bị quả báo chi?

Thế
Tôn
nói: Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không
nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa thầy
bạn, quên hết các công lao khi trước tu hành, trở lại bị
lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh
điên đão không thành Phật đạo. Trong đó hoặc có người
phạm về việc ăn thịt thời phải đọa lạc về thần đạo,
như bực trên thì làm quỷ vương, bực giữa thì làm dọa
xa, bực dưới thì làm la sát, chịu hưởng của người cúng
tế. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi
trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Trong
đó
hoặc có người phạm dâm dục thời làm ma đạo, bực
trên thời làm ma vương, bực giữa thời làm ma dân, bực dưới
thời làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp
luân
hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở
lại
đặng.

Trong
đó
hoặc có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc
về quỷ đạo, bực trên làm hữu tài quỷ, bực giữa thời
làm phong nguyệt quỷ, bực dưới thời làm tiêu tán quỷ.
Đến chừng phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả
quả
, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Hoặc
phạm tội trộm cắp, phải đọa lạc tà đạo, bực trên
thời làm tinh linh, bực giữa thời làm yêu quái, bực dưới
thì làm người ta. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi
trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Hoặc
phạm tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng
nói là chứng, cái lòng tự cao nên phải đọa làm loài yêu,
bực trên thời làm ly mị, bực giữa thời làm vọng lượng,
bực dưới thời dựa gá cỏ cây. Phước khí tiêu hết, theo
nghiệp luân hồi trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp
khó trở lại đặng.

Lại
có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa Tu la
ác đạo, bực trên là A tu la vương, bực giữa là A tu la chúng,
bực dưới là A tu la nữ, thường ham tranh đấu, chịu những
lao khổ mãi mãi. Phước khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi
trả quả, hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Nếu
tu hành còn uống rượu mà muốn thành đạo, thì cũng như
người uống thuốc độc mà muốn được an vui, không có thể
được. Cớ sao vậy?

Nếu
tu hành mà còn ăn thịt, muốn được thành đạo, cũng như
nhận kẻ oán thù cho là con mình, muốn được thân yêu không
có thể được.

Nếu
tu hành phạm tội trộm cắp, muốn đặng thành đạo, cũng
như lấy cái lu thủng đựng nước, muốn nước đầy mãi
không có thể được.

Nếu
tu hành còn phạm dâm dục, muốn cầu thành đạo thì như nấu
cát đá muốn cho thành cơm, không có thể được.

Nếu
tu hành chẳng dứt bỏ nói dối, lấy cái dối làm thiệt,
muốn cho thành đạo cũng như người thường dân xưng là vị
quốc vương, muốn cầu giàu sang không có thể được.

Nếu
tu hành mà tâm thường hay giận hờn, tánh thường hay tranh
hơn thua, thiếu lòng từ bi bình đẳng mà muốn thành đạo,
cũng như mình đi chiếc ghe lủng, muốn qua biển lớn thì phải
bị chìm, tại nơi người muốn nên phải bị đọa, chẳng
phải đức Phật chẳng cứu.

Nếu
như muốn đoạt kết quả tốt đẹp của đạo Bồ đề thì
phải giữ gìn trai giới của đức Như lai cho được thanh
tịnh
, thà là bỏ thân mạng, nhứt định không hủy phamï;
đức Phật nhìn nhận người này chắc được thành Phật.

Đức
Phật
nói với Văn Thù Sư Lợi rằng: Ta cũng từ chỗ phát
tâm
trai giới trong sạch mà đặng, ta cũng từ chỗ chân thật
mãi mãi không lui sụt mà đặng. Ta cũng từ chỗ lập nguyện
rộng lớn, nguyện ra khỏi thế gian mà đặng, ta cũng từ
chỗ lập chí bình đẳng chẳng luận bà con hay là người
dưng mà đặng. Ta cũng từ chỗ hạ tâm thấp hèn cầu thầy
học hỏi mà đặng, ta cũng từ chỗ từ bi nhẫn nhục
đặng, ta cũng từ chỗ tinh tấn giải thoát mà đặng. Ta cũng
từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học
cho đến ta cũng từ chỗ học hết thảy các giống trí huệ
mà đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Như người ở trên đời không
trai giới mà hay làm phước huệ cho đời. Sau khi chết
rồi có con hiếu thuận hoặc trai hay gái thỉnh thầy tụng
kinh
đại thừa, làm thủy lục hoặc trai đàn lớn cầu siêu
độ
vong linh, không biết vong linh có thể siêu độ không?

Đức
Phật
nói: Nếu như người khi sanh tiền không có công lành,
chết rồi có con cháu làm công đức cầu siêu, bố thí bạc
tiền thì mười phần công đức chỉ đặng ba phần.

Cớ
sao vậy? Vì lập công làm phước không chi qua tiền bạc của
mình ra làm chay bố thí, trong chúng đồng phần người sống
được phước hơn người vong.

Còn
như thỉnh thầy uống rượu ăn thịt chẳng đặng trong sạch,
tụng kinh lấy bạc tiền. Thiên thần chẳng giáng lâm, Phật
thánh không đến trợ, lại vong linh ấy càng thêm tội lỗi.

Bằng
như có con hiếu thuận chân chánh, cha mẹ chết rồi, trong
mỗi tuần bảy ngày làm chay bảy thất, hoặc trong ba năm cả
nhà ăn chay giữ giới, xuất tiền của trong sạch, cầu thỉnh
thầy tu hành đức hạnh, trai giới tinh nghiêm, tụng kinh đại
thừa
, hoặc làm chay thủy lục thiết lập nghiêm trang, thắp
hương
rãi hoa y theo pháp cúng dường, có lòng thành kính thay
thế cho vong hồn khỏi tội đặng phước. Nếu cầu siêu bố
thí
bạc tiền như vậy, vong linh mới đặng sanh lên cõi trời,
người sống cũng đặng phước, kẻ còn người mất đều
an vui, người vui mừng thần thánh cũng vui mừng, như vậy
mới thật là con cháu hiếu thuận.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là minh sư khẩu khuyết?

Đức
Phật
nói: Khi Như Lai diệt độ rồi, có dạy các vị Bồ
tát
truyền Phật tâm ấn, tiếp nối huệ mạng của Phật
đều giáo hóa mỗi phương, dẫn dắt những người chưa ngộ.
Nếu chúng sanh nào có nhân duyên đặng nhân quả chân chánh,
chánh kiến, chánh tu hàng phục tà ma ngoại đạo, phá trừ
kiến, tu công hạnh chánh trước sau trong sạch, biết người
chẳng có căn lành chẳng độ, người không phước đức chẳng
truyền. Nếu có trai lành gái tín chơn chất, trí huệ sáng
suốt
hết lòng tầm cầu học đạo, thường thường thân
cận cúng dường lâu ngày, hạ tâm tham cầu học hỏi, thầy
với trò được biết với nhau rồi, chừng đó mới lạy tâm
ấn
tâm, lấy đạo truyền đạo, như các vị Tổ trước sau
tiếp nối lưu truyền chẳng dứt, đây tên là Thiên cơ khẩu
khuyết. Nếu người có duyên gặp đặng, không luận căn lớn
hay nhỏ cũng thành Phật đạo.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Hoặc có người trai hay gái,
gần thầy nghe pháp thường thường mà nữa tin nữa không,
dường như quy y mà chẳng y theo, thân tuy lạy Phật mà lòng
nghi hoặc đã nhiều, tâm mình chẳng ngộ trở lại trách thầy
không chịu chỉ dạy, những người như vậy làm thế nào
hóa độ?

Đức
Thế Tôn
nói: Đây là những người ít phước, trí huệ cũng
không, nên không biết pháp vô vi, chấp trước hình tướng,
tà kiến kiêu mạn che lấp chơn tâm, chẳng đặng chánh kiến.

Cớ
sao vậy? Nếu người tu hành biết trọng thầy thời mới trọng
pháp, còn như tu hành khinh dể thầy thì trong lòng cũng khinh
dể pháp. Hễ trọng thầy trọng pháp thời học mới đặng,
còn khinh thầy thời pháp không học, nếu khinh thầy chê pháp
là người tăng thượng mạn. Tuy đồng đi với thầy mà lòng
xa cách như ngàn muôn dặm, đến chừng mạng chung vào địa
ngục
A Tỳ, ngàn muôn Phật ra đời cứu độ chẳng đặng,
hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là một thânmà
bảy báu bố thí?

Đức
Phật
nói: Nếu chẳng tham là bố thí, như con mắt chẳng tham
sắc tốt và các vật đẹp là sắc bửu bố thí. Lỗ tai chẳng
nghe tiếng vui đờn ca xướng hát là thinh bửu bố thí. Lỗ
mũi chẳng tham ngửi hơi thơm tho vật lạ là hương bửu bố
thí
. Cái lưỡi chẳng tham vị béo ngọt ngon là vị bửu bố
thí
. Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt đẹp là xúc bửu
bố thí. Ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình là pháp bửu
bố thí. Tánh chẳng tham những sự dục lạc trong thế gian
là Phật bửu bố thí. Nếu có người biết đặng trong thân
mình có bảy báu bố thí thì được phước đức hơn là đem
bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu,
não
, san hô, hổ phách, trăm ngàn muôn phần bố thí cũng chẳng
bằng một phần, nhẩn đến không thể đem thí dụ gì mà
so sánh được.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là Vương xá thành?

Đức
Thế Tôn
nói: Tâm thí dụ là “Xá”. Tánh thí dụ là “Vương”.
Trai giới trong sạch thí dụ “Thành tường”. Sáu căn thí dụ
sáu bộ quan lại, sáu trần thí dụ sáu mối giặc mạnh, sáu
thức thí dụ sáu cái cửa ra vào. Năm dục thí dụ năm con
đường
hang hố. Kiến văn tri giác thí dụ trong nước có
bốn tướng đồng phò tá Tánh vương. Giống như việc nhà
việc nước, khi Tánh vương ra ngồi chỗ “Tâm xá” thường
cùng sáu thần, bốn tướng đồng nghị sự lý thưởng phạt
trong nước. Nếu Tánh vương có đạo chẳng vị tình riêng,
có công thời thưởng, có tội thời trừng, lấy chánh lý
hành đạo; như vậy người chết cũng không oán hận, hình
chánh như thế thì thành vách trai giới ở bên ngoài được
bền chắc, sáu cửa đóng kín sáu giặc chẳng xâm phạm. Ở
bên trong thời được sáu thần chân chánh, bốn tướng công
bình, chẳng dám làm điều hư tệ; bên trong bên ngoài như
vậy thời Tánh vương đặng thái bình. Nếu Tánh vương không
có đạo, nghe lời sàm tấu, thâu dụng nịnh thần, bỏ việc
công theo việc tư, thưởng phạt chẳng công bình, trên dưới
nghịch lẫn nhau. Bên trong sáu thần chống báng nhau, bốn tướng
hư tệ; ở bên ngoài sáu cửa chẳng đóng, sáu giặc nổi
loạn
, công phá vách thành trai giới vào trong nước cướp
đoạt công đức của Tánh vương. Cái phước hết, cái pháp
không
còn, thân tâm phải sa ngã chìm đắm mãi mãi. Cho nên
muốn trị thân thời phải có pháp luật, muốn trị tâm thời
phải có đạo lý, nếu không công bình thời không làm, không
chân chánh thời không dùng. Phải được trong ngoài như nhau,
trên quan dưới dân không lỗi, chúa tôi phải đạo, tâm tánh
sáng suốt, thể dụng điều hòa thì tánh vương, quan dân đều
được thái bình vui vẽ, nên tên là Vương Xá Thành.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao gọi là Phật pháp của
mình?

Thế
Tôn
nói: Nếu hiểu rõ chân tánh của mình xưa nay là Phật;
trong tâm có Phật, còn pháp trong thế gianxuất thế gian
đều thông biết chẳng lầm, là pháp của mình. Nên cái tâm
cần phảiđạo lý nuôi dưỡng, Phật phải nhờ có giáo
pháp
phò trì, cho nên của vật để nuôi thân mạng, đạo
để nuôi huệ mạng, đạo gồm thông tất cả nên được
thành Phật.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Bồ tát Quán Thế Âm sao lại
có đến một ngàn con mắt, một ngàn cánh tay?

Thế
Tôn
nói:Con mắt là biểu hiệu
kiến tánh, cánh tay là biểu hiệu diệu dụng. Nếu người
hiểu được rốt ráo, minh tâm kiến tánh thì kiến tánh này
cũng đồng như một ngàn vị Phật kiến tánh không khác, nên
tên là Thiên nhãn đều phóng ra hào quang sáng chói. Tự tánh
của mình phát sanh diệu dụng cũng đồng diệu dụng như ngàn
vị Phật chẳng khác, nên tên là Thiên thủ tác dụng đồng
vậy. Thể và dụng hai pháp đều biểu lộ ra như vị Viên
Thông
Quán Thế Âm Bồ tát.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là ba độc?

Đức
Thế Tôn
nói: Ngu si tà kiến là một độc, tham lam chẳng đủ
là hai độc, sân nộ tật đố là ba độc. Ba độc này còn
hoài thì người ấy phải đọa trong tam đồ, một khi mất
thân người muôn kiếp khó trở lại đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là tứ đại?

Thế
Tôn
nói: Đất có tánh chắc, nước có tánh thông, lửa có
tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Trong thân người
cũng có tứ đại hòa hiệp mới thành một thể, nên da thịt
gân cốt hiệp thành cái thân tên là địa đại. Nước miếng,
nước tiểu và máu tươi nhuận cái thân tên là thủy đại.
Trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân tên là hỏa
đại
. Tay chân co duổi đi đứng tới lui, chuyển động cái
thân tên là phong đại. Hễ tứ đại điều hòa thì thân an
lạc
; tứ đại chẳng hòa ắt sanh bệnh khổ. Nên địa, thủy,
hỏa, phong kêu là tứ đại.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Làm sao kêu là hiếu thuận?

Thế
Tôn
nói: Hiếu là lòng từ, thuận là chẳng nghịch chánh lý;
người có hiếu từ chẳng ngại sanh linh, để cho mình được
sống chẳng giữ lấy việc tư làm trái sự công bình; tôn
trọng
ngôi Tam bảo, kính trọng cha mẹ, chẳng sai chẳng dối,
không thương không ghét. Khuyên bảo trong nhà đồng tu phước
huệ, ở trong thời thuận hòa, ở ngoài thời trên cung dưới
kính, cha mẹ còn hiện tiền an vui tâm thể, cha mẹ mãn số
đặng lìa tội khổ. đặng sanh cung trời mới thiệt là thế
gian
nam nữ hiếu thuận. Còn như mỗi ngày sát hại sanh vật
cúng dưng cha mẹ ông bà, làm thêm tội nghiệp cho tổ tông,
thiệt là người đại bất hiếu, lúc sống đồng tạo nghiệp,
sau chết đồng đọa với cha mẹ, oan trái dẫn dắt với nhau
chung vào một chỗ đồng đi luân hồi, hễ mất thân người
muôn kiếp khó trở lại đặng.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu rằng phương tiện?

Thế
Tôn
nói: Hai chữ phương tiện có nhiều nghĩa, nay ta lược
nói có đến mười lăm nghĩa:


Phương tiện thứ nhấtchẳng
nuôi chẳng giết.


Phương tiện thứ hai chẳng ăn thịt uống rượu.


Phương tiện thứ ba không nấu rượu.


Phương tiện thứ tư không giết hại nhau.


Phương tiện thứ năm đừng chỉ sai đường cho người.


Phương tiện thứ sáu chẳng nên đốt rừng.


Phương tiện thứ bảy đừng oán trời trách đất.


Phương tiện thứ tám đừng khinh khi thần thánh.


Phương tiện thứ chín đừng nói những lời thô tục.


Phương tiện thứ mườichứa
nhân bố đức.


Phương tiện thứ mười một cần kiệm biết đủ đừng tham.


Phương tiện thứ mười hai kính người già cả thương kẻ
nghèo đói.


Phương tiện thứ mười ba phải cứu giúp nhau khi hoạn nạn.


Phương tiện thứ mười bốntu
nhơn chứng quả.


Phương tiện thứ mười lăm không oán thù kẻ bà con thân
cận, cũng đều bình đẳng tế độ giúp nhau.

Nếu
người làm đặng mười lăm phương tiện này thì được mười
lăm phước báo thanh tịnh. Thường sanh làm người hoặc được
về cõi trời, thọ hưởng những điều khoái lạc tiêu diêu.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu rằng hảo tâm?

Thế
Tôn
nói:Hai chữ hảo tâm ít
người làm được, nếu có lòng hảo tâm, làm việc lợi ích
cho người chẳng cần trả ơn, làm việc giúp người chẳng
cần quả báo, cúng dường cho người chẳng cần phước báo,
làm lợi ích cho người chẳng cần ân báo những đến hạ
tâm mình xuống, làm cho lòng muốn của người được đầy
đủ. Khó bỏ xả mà bỏ xả đặng, khó nhịn mà nhịn đặng,
khó làm mà làm đặng, khó cứu mà cứu đặng, chẳng luận
bà con hay người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng
sự thật. Chẳng phải miệng nói mà lòng không làm, con người
cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện; người
hiền tâm thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe
khang. Ý nghĩ giúp ích cho người mà thôi, chẳng cầu danh vọng
cho mình như vậy mới thật là hảo tâm. Không phải như những
người bỏ ra có một tấc mà muốn lấy vô được một thước,
gieo giống ít mà muốn đặng trái nhiều, như vậy đâu phải
là người hảo tâm.

Bồ
tát Văn Thù sư Lợi
hỏi Phật: Sao kêu là người trí, sao
kêu là người ngu, sao kêu là người mê, sao kêu là người
ngộ. Xin đức Phật từ bi giảng dạy cho tôi được biết?

Đức
Phật
nói: Chữ trí là biết, người trí biết có đạo Phật
cần phải tu, biết có thánh giáo cần phải học, biết có
minh sư cần phải cầu. Biết có phước cần phải làm, biết
có tội cần phải sám hối, cho đến biết rõ pháp thế gian,
pháp xuất thế gian và sự luân hồi quả báo như trên trời
có mặt nhật, như đêm tối có đèn. Được hiểu biết, được
nghe thấy sự báo ứng của việc lành việc dữ, hễ hiểu
biết
nghe thấy rồi liền bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh.
Việc phi lý không bao giờ nói, ngoài phận sự không bao giờ
làm, không phải đạo chơn chánh không theo, không phải vật
của mình không lấy. Tư tưởng trung chánh mỗi mỗi chơn thật,
tích đức nêu danh lưu truyền đời sau, như vậy gọi là người
trí thức.

Ngu
là tối, người ngu cái lòng tối tăm, chẳng biết cao thấp
lớn nhỏ, chẳng biết thiên đàng địa ngục, chẳng tin có
tội phước luân hồi. Một bề tham luyến tửu sắc, sát sanh
hại mạng để cung cấp cho cái miệng hay bao tử. Trong một
đời
sát sanh trăm ngàn súc vật, gây cái nợ oan trái trăm
ngàn muôn ức tánh mạng, luân hồi gặp gở ăn nuốt lẫn
nhau, không biết bao giờ thôi dứt. Hết thảy các loại trâu,
dê, heo, ngựa đều là đòi trước hoặc kẻ thân nhân, hoặc
người thù oán, sau khi luân hồi thay hình đổi dạng làm thân
súc sanh. Người si mê không biết giết hại mà ăn, cũng như
giết cha mẹ của mình, hay ăn thịt bà con dòng họ của mình.
Cha bị con giết, con bị cháu giết, trên đường luân hồi
cha con chẳng biết nhau, giết nhau ăn nhau không bao giờ dứt,
một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi đặng.

Người

muội
tham mến tửu sắc, muốn được khoái lạc, buông
lung
sáu căn tham mến sáu trần, làm nhiều cách điên đảo
đủ điều, chỉ nhớ sự thọ dụng hiện tiền, không ngó
lại thân sau chịu khổ, mê muội chơn linh đuổi theo huyễn
vọng, bỏ xa tánh giác phối hợp trần duyên. Ví dù gặp bậc
thánh hiền cũng không cứu độ được, chìm sâu biển khổ
mất hẳn tánh linh, một khi mất thân người muôn kiếp khó
phục hồi đặng.

Chử
ngộ là giác, người ngộ rồi tự hiểu biết tâm mình là
Phật, mộ đạo tu hành, ba nghiệp không còn, sáu căn thanh
tịnh
. Phương tiện đủ cách, không có ngã nhơn, độ mình
độ người đều thành Phật đạo. Tuy ở thế gian mà chẳng
nhiễm thế gian, ở trong trần lao mà vẫn chuyển pháp luân,
giáo hóa Ta bà đổi thành Cực lạc, biến địa ngục làm
thiên đường. Chỉ dẫn những người mê đặng thấy Phật
tánh
, làm các việc Phật pháp, độ thoát chúng hữu tình,
chẳng bỏ lòng từ bi, thệ nguyện cứu độ. Nếu chúng sanh
nào biết cúng dường người này thì đặng phước đức như
cúng dường các Phật ba đời công đức như nhau không khác.
Cớ sao vậy? Nghĩa là mình giác tỉnh rồi, độ người cùng
giác tỉnh gọi là chánh giác, thuyết pháp lợi sanh, diệu
dụng
thần thông cùng Phật không khác. Hay mở bày chỉ rõ
cho chúng sanh ngộ tri kiến Phật, hay dẫn dắt chochúng
sanh
nhập tri kiến Phật, hay tìm xét cho chúng sanh tánh tri
kiến Phật
.

Tại
sao? Nếu có người biết tỉnh ngộ thì đặng danh hiệu Bồ
tát
, đặng thông các pháp bí mật của Phật, chơn chánh truyền
thọ cho người. Nếu có người trai lành gái tín đặng thầy
nghe pháp, tin theo giáo pháp của người này chỉ dạy, đều
là chánh nhơn, đều đặng chánh quả. Cho nên người còn nhỏ
tu hành đặng chánh pháp, liền thành Phật đạo;hai
mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
ba mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
bốn mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
năm mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
sáu mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
bảy mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
tám mươi tuổi tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo.
Kẻ trai lành tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
người gái tín tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo.
Người giàu sang tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
người nghèo khổ tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật
đạo. Đế vương tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật
đạo; Tể quan tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo;
cho đến loài người và không phải loài người tu hành đặng
chánh pháp cũng thành Phật đạo.

Nên
Đức Thế Tôn nói bài kệ như vầy:

Bằng
có nam hay nữ

Đặng
gặp chơn minh sư

Tu
hành
đặng chánh pháp

Tất
cả đều thành Phật.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
hỏi Phật: Hết thảy chúng sanh đều
Phật tánh, vì sao không tu thì chẳng thành Phật?

Thế
Tôn
nói: Không phải là không thành Phật, chỉ vì nghiệp chướng
rất nhiều. Tại sao? Hết thảy chúng sanh mê muội điên đảo
từ đời vô thỉ đến nay, chẳng trồng căn lành chỉ tạo
ác nghiệp, oan oan buộc nhau, nghiệp nghiệp kéo nhau, bên này
chẳng chịu buông bên kia, bên kia chẳng chịu tha bên này,
kết thành cái lưới nghiệp dẫy đầy trong thế gian, cho nên
thường vào ra ba đường lại sáu nẻo, gặp gở nhau ăn nuốt
lẫn nhau, báo ứng xoay vần không bao giờ dứt. Vả như oan
trái trả đủ được sanh trong loài người lại không có căn
lành, không gặp chánh pháp, ví dù có gặp chăng nữa, các
căn mờ tối, ma chướng chập chồng, đường đạo khó phát
triển nên chẳng đặng thành chánh quả.

Đức
Phật
nói với Văn Thù Sư Lợi: Nếu người không giữ giới
sát sanh ăn thịt thì đoạn dứt hột giống từ bi; người
không giữ giới trộm cắp, của người không cho mà mình lấy
đoạn tuyệt hột giống giàu sang; người không giữ giới
tà mị dâm dụcđoạn tuyệt hột giống thanh tịnh; người
không giữ giới nói dối, nói thêu dệtđoạn tuyệt hột
giống thành thật; người không giữ giới say rượu mê man
đoạn tuyệt hột giống thông minh trí huệ. Cho nên không
giữ năm giới là tuyệt đường nhơn thiên, còn năm giới
mà giữ được thời đoạn tuyệt ba đường dữ; lành dữ
tại mình tạo ra mình chịu lấy.

Tại
làm sao? Bởi ông tu ông đặng, bà tu bà đặng, tu nhiều đặng
nhiều, tu ít đặng ít, đồng tu đồng đặng, chẳng tu chẳng
đặng, ai tu đặng công nấy, người khác chia chẳng đặng.
Nếu người gây tạo tội ác thì người chịu lấy, người
khác chịu thế chẳng đặng; cho nên muốn tránh khỏi địa
ngục
, trước phải trừ cái lòng dữ; muốn tránh khỏi ngạ
quỷ
, trước phải đoạn dứt lòng khắc bạc tham lam; muốn
tránhkhỏi súc sanh thì đừng ăn thịt súc vật; muốn đặng
làm người phải học các hạnh hiếu thuận từ bi; muốn sanh
cõi trời phải giữ năm giới; muốn thành Phật đạo phải
minh tâm. Hễ đặng minh tâm thì nhân quả chẳng mờ tối,
nhân quả chẳng mờ tối thì tự nhiên kiến tánh thành Phật,
không còn nghi ngời gì nữa.

Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi
than rằng: Lành thay! Thân người khó đặng,
trung độ khó sanh, chánh pháp khó gặp, trí thức khó gần.
Thân người khó đặng, nay đã đặng; trung độ khó sanh, nay
đã sanh; chánh pháp khó gặp, nay đã gặp; trí thức khó gần,
nay đã gần. Việc việc đầy đủ, mỗi mỗi sẵn sàng, nếu
chẳng phát tâm tu hành, Phật cũng khó cứu đặng.

Bây
giờ trong pháp hội các vị Tỳ kheo mới phát tâm và chúng
Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, vô lượng Thiên long Bát
bộ
đều ngộ bổn lai Phật tánh của mình. Hết thảy công
đức
do nơi tâm mình mà sanh, huệ thân viên mãn cũng do nơi
tâm mình mà có.

Sau
khi tứ chúngnghe đức Phật nói kinh Đại Thừa Kim cang Kinh
Luận này rồi, đều vui mừng hớn hở tin chịu vâng làm.